Cập nhật nội dung chi tiết về Vị Tướng Kiệt Xuất Trần Quốc Tuấn Và Bài Học Cho Người Trẻ mới nhất trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa được xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.
Đây có thể coi là một trong những câu nói nổi tiếng nhất của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn – vị tướng soái kiệt xuất bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, nó chưa thể lột tả hết con người bậc đại nhân, đại trí, đại dũng ấy.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Quốc Tuấn là con của An Sinh vương Trần Liễu, anh ruột vua Trần Thái Tông. Mẹ ông là Thiên Đạo quốc mẫu. Giới sử học chưa thể xác định chính xác năm sinh của bậc kỳ tài quân sự này song nhiều tài liệu ghi ông sinh năm 1228.
Tượng Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ở Nam Định. Ảnh: Ditichlichsuvanhoa.
Từ nhỏ, Trần Quốc Tuấn có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người lại được thầy tài giỏi dạy dỗ nên sớm đọc thông hiểu rộng, văn võ toàn tài.
Sử sách không ghi rõ năm ông trở thành võ quan. Song những đóng góp của ông cho lịch sử nước nhà xứng đáng được người đời truyền tụng khi ông 3 lần lãnh đạo quân dân nhà Trần chiến thắng đội quân hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.
Năm 1257, quân Mông Cổ xâm lược nước ta, vua Trần Thái Tông lệnh các tướng đem quân ngăn giữ biên giới phía bắc theo sự tiết chế của Trần Hưng Đạo. Bằng tài cầm quân và dùng người kiệt xuất, ông dẫn dắt binh lính đập tan cuộc tiến công của quân Mông, buộc họ phải rút lui.
Năm 1285, quân Nguyên – Mông ào ạt tấn công xuống phía nam. Quân Trần thất bại, tổn thất nặng nề.
Một lần nữa, Trần Quốc Tuấn cho thấy tài năng quân sự khi thi hành kế vườn không nhà trống, rút quân bảo toàn lực lượng trước khi tổng phản công, giành thắng lợi quyết định.
Ở lần Nguyên Mông xâm lược thứ ba, Hưng Đạo vương nhận định “năm nay đánh giặc nhàn” và dễ dàng dẫn dắt quân dân nhà Trần đánh lui đế quốc hùng mạnh này.
Sau này, Trần Quốc Tuấn lui về Vạn Kiếp ở ẩn nhưng vẫn sẵn sàng hiến kế giữ nước, san sẻ nỗi lo với vua Trần.
Tấm lòng rộng lớn
An Sinh vương Trần Liễu vốn có hiềm khích với vua Trần Thái Tông. Trước lúc qua đời, ông dặn Trần Quốc Tuấn: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”.
Hưng Đạo vương nghe nhưng không cho đó là phải. Đến khi vận nước lung lay, quân quyền đều nằm trong tay mình, ông đưa chuyện này ra hỏi hai gia nô thân tín là Yết Kiêu và Dã Tượng.
Họ đáp: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu”.
Nghe xong, Trần Quốc Tuấn cảm động, khen ngợi hai người.
Vị tướng kiệt xuất cũng từng hỏi con trai về ngôi báu. Khi nghe câu trả lời ngụ ý muốn cướp ngôi của Trần Quốc Tảng, ông nổi giận, rút gươm toan chém chết đứa con loạn thần tặc tử.
Cuối cùng, dưới sự can ngăn của mọi người, ông thay đổi ý định nhưng từ đó kiên quyết không gặp Tảng, thậm chí dặn dò sau này ông chết, đậy nắp quan tài rồi mới cho Tảng vào viếng.
Vì lợi ích dân tộc, Trần Quốc Tuấn sẵn sàng gạt bỏ hiềm khích cá nhân.
Trong lần quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta lần thứ hai, ông vốn xung khắc với tướng Trần Quang Khải. Nhưng khi nhận ra nếu hai người không đồng lòng chung sức thì chỉ có lợi cho quân thù, ông đã chủ động hòa hảo với Trần Quang Khải.
Một người ở vị trí cao nhưng không tư lợi, biết vì việc lớn mà gạt bỏ tư thù như Trần Quốc Tuấn là tấm gương cho những người trẻ sống trong thời đại mà người ta dễ dàng buông lời nhục mạ, thượng cẳng chân hạ cẳng tay chỉ vì một ánh mắt không vừa ý hay vài câu nói.
Sống không chỉ để hưởng thụ
Một trong những điều làm nên chiến thắng lừng lẫy của quân dân nhà Trần trong 3 cuộc chiến đấu chống đội quân thiện chiến nhất thời bấy giờ là sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt.
Trong Thuyết Trần, Trần Xuân Sinh ghi: “Trước sự bành trường của nhà Nguyên, nhà Trần đã đề phòng, chuẩn bị kháng cự. Trần Quốc Tuấn mở trường dạy võ, dạy con em hoàng tộc và những người tài giỏi trong nước. Ông thường đi khắp các lộ, kiểm soát các giảng võ đường địa phương, thu dụng nhiều người tài giỏi trong nước như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa, Đỗ Hành…”.
Sau chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất, thay vì tận hưởng cảnh thái bình với chức cao, lộc lớn, Hưng Đạo vương vẫn đốc thúc quân sĩ luyện tập không ngừng nghỉ.
Ông chỉ trích lối sống hưởng thụ của quân sĩ: “Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm”.
Dường như thời nào cũng vậy, người ta thích hưởng thụ những thú vui trước mắt mà quên tính chuyện lâu dài. Những lời nhắc nhở của vị tướng đại tài chắc chắn không chỉ cảnh tỉnh binh sĩ dưới quyền mà còn là bài học cho giới trẻ ngày nay.
“Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai”.
Cuộc đời vẻ vang cùng những chiến công hiển hách của Trần Quốc Tuấn là kết quả của quá trình rèn luyện, cống hiến suốt đời. Giả thử vị tướng ấy mải mê tận hưởng cuộc sống vương hầu mà gạt việc rèn binh luyện tướng, liệu sử sách có thể ghi danh ông với chiến công 3 lần dẫn dắt quân dân nhà Trần đánh tan đế quốc hùng mạnh Nguyên Mông?
Nếu Trần Quốc Tuấn dốc lòng theo đuổi vinh hoa mà bỏ qua lẽ phải, đạo làm người, liệu hậu thế có mãi tôn xưng ông là Đức thánh Trần và thờ phụng muôn đời?
Thông qua câu chuyện về Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, người trẻ ắt hẳn nhận ra muốn thành công, mỗi người phải gạt bỏ thói quen hưởng thụ, không ngừng cố gắng.
Theo Zing.vn
Tổng Hợp 12 Câu Danh Ngôn Người Kiệt Xuất Hay Nhất Và Ý Nghĩa Nhất
1/ Vĩ nhân trên thế giới chưa chắc đều là học giả vĩ đại, đồng thời, học giả vĩ đại trên thế giới cũng chưa chắc đều là vĩ nhân.
2/ Chỉ có con đường gập ghềnh chưa từng có người đi vào mới là con đường của thiên tài.
3/ Cảnh khổ, sự thất bại là một nấc thang cho bậc anh tài, một kho tàng cho người thông minh và là một vực thẳm cho kẻ yếu hèn.
4/ Khi danh nhân đang sống mọi người đều ganh ghét họ khi danh nhân chết đi, mọi người đều khen ngợi họ.
5/ Khuyết điểm của vĩ nhân chính là an ủi của người ngu.
6/ Không có người nào là anh hùng trong mắt người làm của anh ta. Nhưng điều này hoàn toàn không phải là vì anh hùng không phải là anh hùng, mà là vì người làm chính là người làm.
7/ Người kiệt xuất luôn là người dùng một tờ giấy, một miếng vải, một hòn đá và một giọng nói đã có thể sáng tạo ra thứ bất hủ.
8/ Người sử dụng miếng sành như miếng bạc là vĩ nhân, người sử dụng miếng bạc như miếng sành cũng là vĩ nhân.
9/ Sùng bái anh hùng có thể tạo ra anh hùng.
10/ Thiên tài chỉ có thể hiểu nhưng không có cách nào bắt chước được.
11/ Anh hùng làm những việc mà anh ta có thể làm, còn người bình thường thì không làm được như thế.
12/ Chí khí mạnh mẽ và nhiệt tình là đôi cánh vĩ đại.
Cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt: Một Biểu Tượng Của Lắng Nghe Và Hòa Giải
(Thethaovanhoa.vn) – Điêu khắc gia Phạm Văn Hạng kể rằng sinh thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thường hay nhắc lại một câu như tâm niệm của lòng ông: “Nghe xuôi, nghe ngược, nghe xốn tai, nhưng vẫn phải nghe để nhận ra những điều tâm huyết”. Chính tâm niệm như vậy mà từ rất sớm (năm 1976), ông Võ Văn Kiệt đã chủ động tìm gặp giới văn nghệ sĩ, trí thức và giới tài chính, kinh tế của chế độ cũ để nghe ý kiến, mời hợp tác, làm việc.
Trong một bài phát biểu còn được trích dẫn nhiều lần, Võ Văn Kiệt từng nói: “Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam cùng mọi thành quả của nền văn hóa Việt Nam không phải của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam… Phải phát huy dân chủ cao độ, thực hành dân chủ thật sự, hòa hợp dân tộc rộng rãi. Mọi người Việt Nam không chỉ là chủ đất nước mà phải làm chủ thật sự, được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra và được thụ hưởng thành quả dân chủ”.
Một trong những trí thức “siêu nhạy cảm” mà ông Võ Văn Kiệt gặp từ sau ngày thống nhất đất nước là Giáo sư Nguyễn Xuân Oánh (1921-2003), một nhà kinh tế chuyên nghiệp, lấy bằng tiến sĩ tại ĐH Harvard năm 1954.
Trước 1975 tại Sài Gòn, ông Oánh từng là Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, Phó thủ tướng VNCH, hai lần là Quyền thủ tướng. Chính những cuộc gặp gỡ từ sớm của ông Kiệt và một vài người khác, mà ông Oánh nhanh chóng được tham gia vào việc cải cách, đổi mới chính sách ngân hàng, tài chính, đầu tư nước ngoài, kiến tạo nguồn vốn… tại Việt Nam. Ông trở thành cố vấn kinh tế cho Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt…, trở thành đại biểu Quốc hội.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ảnh: Minh Đạo
Theo vài người kể lại thì câu nói “nghe xuôi, nghe ngược, nghe xốn tai, nhưng vẫn phải nghe để nhận ra những điều tâm huyết” của ông Kiệt có từ thời gian này, vì ông Oánh nổi tiếng là người thẳng tính, không ngại chỉ trích. Những phát biểu thẳng thắn của ông Oánh tại Quốc hội vẫn còn được nhiều người ghi nhận.
Ông Kiệt cũng ứng xử tương tự với nhà kinh tế Nguyễn Văn Hảo (sinh năm 1942), người từng là Thống đốc Ngân hàng Quốc gia và Phó thủ tướng của VNCH. Những năm 1980, khi ông Hảo đến Pháp định cư, trở thành cố vấn kinh tế cao cấp cho Chính phủ Haiti, ông Kiệt vẫn muốn giữ liên lạc thường xuyên.
Thử hình dung, đầu Thu năm 1982, khi ông Kiệt chuẩn bị ra Hà Nội làm Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, thì đến chơi với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tại đó nhà thơ Nguyễn Duy đã đọc bài Đánh thức tiềm lực, trong đó có những câu như: “… Cần lưu ý/có lắm nghề lạ lắm/nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau/nghề chửi đổng, nghề ngồi lê, nghề vu cáo/ nghề ăn cắp lòng tin và chẹt họng đồng bào/có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm gì cả/thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề… Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy/phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ mê”. Sau khi biết việc ông Kiệt nghe bài này với vẻ thích thú thì nhiều nơi mới dám công khai in bài thơ này.
Nhà văn Sơn Nam kể rằng những cuộc gặp với ông Kiệt thường “cãi cọ nhiều hơn vui vẻ, vì ông ấy thích nghe sự thật, thích nghe những ý kiến trái chiều, phản biện. Ông ấy là người hỷ xả, không tư thù, giận hờn hay chấp nê với các ý kiến trái chiều, nghịch nhĩ. Làm một người luôn lắng nghe như ông cũng chẳng sướng ích gì, đôi khi buồn nhiều hơn vui”.
Chuyên gia tài chính Lê Trọng Nhi (thành viên nhóm Thứ Sáu) có nhiều dịp gần gũi, phân tích, cố vấn cho ông Võ Văn Kiệt kể rằng: “Nhiều lúc ông phải “gồng” mình lắng nghe những điều góp ý hoặc phê bình rất khó chịu của giới trí thức. Ông tiếp nhận hết, nhưng ông cũng rất thẳng thắn về những quan điểm của ông và trong vai trò của ông”.
Điều mà ông Nhi nói có thể được nhìn thấy trong một đoạn của lá thư mà ông Kiệt gửi cho nhóm Thứ Sáu: “… Tôi luôn quý trọng tình cảm chân thành, thẳng thắn của anh em. Tôi cũng đánh giá cao những ý kiến đóng góp của anh em về nhiều lĩnh vực trong suốt hơn 15 năm qua, không phải vì tất cả những ý kiến đó đều mới mẻ, đúng đắn, khả thi. Có ý kiến, xét trên quan điểm tổng thể tầm quốc gia, chưa thực sự phù hợp với điều kiện, tình hình nước ta. Có ý kiến cùng gặp nhau với kết quả nghiên cứu, đề xuất của những cơ quan, cá nhân khác. Nhưng tất cả đều xuất phát từ mong mỏi khát khao đưa đất nước vượt lên. Hơn nữa, đều là kết quả của cả một quá trình lao động trí tuệ, công quả, trong khi cuộc sống và công việc thường nhật của mỗi anh em còn không ít khó khăn. Chúc anh em mạnh khỏe, hạnh phúc. Tôi xin thi đua cùng anh em, tiếp tục làm công quả và khuyến khích được nhiều người cùng làm, với tất cả trách nhiệm vì sự nghiệp chung”.
Nhóm Thứ Sáu hình thành từ nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế, thời cuộc, văn hóa sau 1975, với khoảng 25 thành viên thường xuyên, hầu hết là chuyên gia, trí thức và công chức từ thời VNCH. Họ hoạt động trên tinh thần “5 không”: Không điều lệ, không biên chế, không vụ lợi, không chủ quản, không lương.
“Theo thiển ý riêng, ông Võ Văn Kiệt đã làm được nhiều điều vượt trên cả vai trò và trách nhiệm của ông. Ông Kiệt là một nhà lãnh đạo thực dụng với đòi hỏi bức bách của đời sống hàng ngày, nhưng cũng không thiếu cái tố chất lãng mạn và mơ mộng về một Việt Nam hòa hợp và hòa giải mà ông đã nhiều lần tâm tình sâu đậm. Câu nói “có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn” của ông Kiệt là chìa khóa về hòa hợp và hòa giải mà chúng ta còn phải cố gắng để mở ra”, Lê Trọng Nhi nói.
Biểu tượng thống nhất mà Phạm Văn Hạng, Vũ Đại Hải, Nguyễn Văn Tất, Hoài Hương, Trịnh Công Sơn cùng với ông Võ Văn Kiệt lên ý tưởng
Điêu khắc gia Phạm Văn Hạng kể rằng sau năm 1975, chúng tôi mở đợt sáng tác mẫu tượng đài chiến thắng (1976 – 1977) với gần 30 đơn vị, tập thể dự thi, không có cá nhân đứng tên. “Thật may, tượng đài chiến thắng thời đó đến nay vẫn chưa thi công, để còn có thời gian suy ngẫm về hình tượng, chất liệu, nội dung… Bởi nếu đã làm thì cũng sẽ hao hao giống nhau, nào đưa tay lên, súng đạn, cờ xí…, để phục vụ tuyên truyền nhiều hơn. Trong khi chúng tôi đang cần biểu trưng văn hóa mang tính nhân văn nhiều hơn, nên phải tiếp tục nghĩ suy” – Phạm Văn Hạng nói.
Sau 18 năm (1977 – 1995), ông Võ Văn Kiệt mới gặp lại Phạm Văn Hạng để cùng suy ngẫm về tượng đài chiến thắng cho chúng tôi dự kiến đặt trong sân của Dinh Thống Nhất. Phạm Văn Hạng cùng các kiến trúc sư Vũ Đại Hải, Nguyễn Văn Tất, họa sĩ Hoài Hương, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cùng góp sức suy tư về công trình với ý tưởng “triệu trái tim trong một trái tim”.
Ông Kiệt từng đến nhà Phạm Văn Hạng (quận Gò Vấp chúng tôi đề nghị hoàn thành hồ sơ công trình một cách trang trọng, chi tiết. Trước khi qua đời khoảng 60 ngày, ông Kiệt đã đề nghị Phạm Văn Hạng, kiến trúc sư Nguyễn Văn Tất tìm chuyên gia thủy tinh để giải trình kỹ/mỹ thuật, và vị trí hướng đến là giữa ngã tư Pasteur – Lê Duẩn, chúng tôi Tuy nhiên đến nay thì biểu tượng đó vẫn là ý tưởng được ôm ấp của những người còn lại.
Hồi Ức Về Cha Của Các Con Cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt
Ba tôi đi xa đã mười năm nhưng không hiểu sao tôi luôn có cảm giác ông vẫn ở rất gần. Có lẽ vì khi tuổi tác ngày càng cao thì niềm nhớ thương cha mẹ ngày càng đằm sâu…
Trao cho các con quyền quyết định đời mình
Cuối năm 1969, khi đang sống với cha mẹ nuôi ở miền Bắc, tôi nghe các cô chú có trách nhiệm nói sẽ đưa tôi vào miền Nam gặp ba. Thật khó tả niềm xao xuyến trong tôi lúc ấy. Suốt tuổi ấu thơ, tôi chỉ mang máng biết cha ruột của tôi đang hoạt động bí mật ở miền Nam, nơi ấy xa lắm, cuộc chiến đấu ác liệt lắm, khó định trước ngày hội ngộ. Niềm hạnh phúc sẽ được gặp mặt ba lần đầu trong đời đã khiến tôi thấy tất cả những trở ngại khác đều là chuyện nhỏ: việc học phổ thông bị gián đoạn, mối hiểm nguy khôn lường của chiến tranh trong chặng đường dài dằng dặc từ Bắc vào Nam…
Khi tôi vào đến nơi, ba tôi đang họp. Tôi đã ngồi đợi ông trong sự hồi hộp và tưởng tượng miên man… Rồi ông bước ra, nụ cười rạng rỡ và hiền từ, tiến về phía tôi với hai cánh tay dang rộng. Còn tôi, sau vài giây bỡ ngỡ đã bước tới như có một lực đẩy vô hình đến ôm chầm lấy ông. Chẳng lời nào thốt ra từ ai. Ấm áp huyết thống trong im lặng. Thế là đủ. Cuộc chiến đấu chưa kết thúc, tôi ở lại cơ quan Miền, còn ông trở về Khu 9 làm nhiệm vụ của bí thư Khu ủy. Hai tháng sau khi anh Phan Chí Dũng, con trai đầu lòng của ba tôi hy sinh tại Hòn Đất – Rạch Giá (4.1972), ba tôi cho gọi tôi từ miền Đông về Năm Căn – Cà Mau, công tác ở bộ phận thông tin liên lạc cho Khu ủy T3. Chiến tranh, việc ai nấy làm, cha con như hai đồng đội, ít có thời giờ riêng tư. Ngay cả khi về Tây Ninh, chuẩn bị chiến dịch Hồ Chí Minh, cha con tôi cũng chẳng đi chung một đợt. Ba tôi cùng đơn vị ông về tới Sài Gòn trưa ngày 30. 4.1975. Còn tôi thì tối hôm đó mới về tới.
Ở Sài Gòn những ngày đầu sau ngày giải phóng, tôi cũng gần như không ở chung với ba tôi. Ông tập trung cho việc lãnh đạo công tác tiếp quản thành phố. Còn tôi, khi được ba hỏi “Sao, giờ trở lại học hành hay là tiếp tục làm việc?”, tôi đã ngay lập tức chọn “giã từ vũ khí” để đi học. Học bổ túc một năm ba lớp, rồi thi đậu vào Đại học Bách khoa, ngành cơ khí chế tạo máy. Học xong năm 1981, thay vì về Sở Công nghiệp như một gợi ý của tổ chức, tôi về làm việc ở Xí nghiệp Cơ khí huyện Củ Chi. Sự lựa chọn đó đến từ một câu nói như bâng quơ của ba tôi: “Học cơ khí thì phải về cơ sở coi cơ khí ở nông thôn thiếu gì, cần gì, chứ ngồi ở văn phòng sở thì có thấy gì đâu”.
Tôi quyết định về Công ty Đầu tư Phát triển Giao thông Vận tải (TRACODI) – một đơn vị mới thành lập của Bộ Giao thông – Vận tải. Công việc mới mẻ nhưng không quá xa lạ với chuyên môn và khả năng của tôi. Sự hài lòng với lựa chọn của mình đã giữ chân tôi ở đơn vị này từ năm 1992 đến khi nghỉ hưu (2014), với chức vụ tổng giám đốc. Suốt 22 năm ấy, không phải đã không có những lần tôi được “rủ rê” vào con đường quan trường, nhưng tôi đã từ chối và tôi biết, chính ba tôi cũng không muốn điều đó.
Di ảnh cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt với dòng chữ viết tay của ông: “Tôi tự hào về các con tôi. Đó là Phúc lớn của tôi”. Ảnh: TLGĐ
Khi còn tại chức cũng như khi đã nghỉ hưu, ông chưa bao giờ, dù chỉ là gợi ý xa xôi, với cán bộ dưới quyền về việc học hành và bố trí công tác cho các con. Trao cho các con quyền tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về mọi lựa chọn khi chúng đã trưởng thành, cách xử sự ấy của ba tôi đã giúp anh em chúng tôi tự tin rất nhiều trong công việc và cuộc sống. Và, nói thật lòng, tôi chưa bao giờ có chút hối tiếc về cách xử sự đó của ba tôi. Cảm động nhất là khi chúng tôi tìm ra dòng chữ sau đây trong sổ ghi chép của ba tôi: “Tôi tự hào về các con tôi. Đó là phúc lớn của tôi”. Dòng chữ ấy với chúng tôi quý hơn của cải, bạc vàng. Nó là sự ghi nhận âm thầm và ấm áp của một người cha rất nổi tiếng, ở đỉnh cao của chính trường, về những đứa con bình thường đã biết giữ mình tử tế để người cha được yên tâm trong phận tề gia, trị quốc. Trong tấm hình thờ ba tôi ở nhà, tôi đã in thêm dòng chữ viết tay quý giá đó của ba tôi, như một lời tự răn mình và con cháu.
Lắng nghe và không áp đặt
Ông hay nói: “Nên nhớ, yêu nước không có nghĩa là yêu chủ nghĩa xã hội. Đừng có áp đặt cho người ta, phải để cho người ta quyền lựa chọn các giá trị tinh thần. Sự nghiệp này có được hôm nay là do trong cuộc chiến đấu gian khổ ác liệt vừa qua đâu phải chỉ có giai cấp nông dân và công nhân tham gia mà còn có rất nhiều người thuộc thành phần trí thức, địa chủ, tư sản”
Trong các cuộc tâm sự cha con, ông thường bảo với tôi, mỗi lần gặp gỡ ai đó, là người dân thường hay là chuyên gia, nếu không biết kéo họ lại gần mình, nếu không biết lắng nghe họ tức là mình đã tự đánh mất cơ hội nạp thêm hiểu biết về kiến thức, về tình hình, về kinh nghiệm mà họ đem tới từ địa phương, từ lĩnh vực chuyên ngành. Người đến nói chuyện với ba tôi, nói chối tai đến mấy ông cũng nghe được hết. Ngược lại, ông không ngần ngại đem đến cho người đối diện những cách nghĩ tuy chưa thuộc số đông trong Đảng, trong bộ máy nhưng ông tin là đúng và ông muốn chia sẻ. Chẳng hạn ông hay nói: “Nên nhớ, yêu nước không có nghĩa là yêu chủ nghĩa xã hội. Đừng có áp đặt cho người ta, phải để cho người ta quyền lựa chọn các giá trị tinh thần. Sự nghiệp này có được hôm nay là do trong cuộc chiến đấu gian khổ ác liệt vừa qua đâu phải chỉ có giai cấp nông dân và công nhân tham gia mà còn có rất nhiều người thuộc thành phần trí thức, địa chủ, tư sản”. Có thể nói, tư tưởng dân tộc rất rõ ở ông, rất lâu rồi và rất nhất quán.
Ba tôi từ giã chúng tôi, từ giã cuộc đời đã đúng mười năm. Sách báo nói không ít về những đóng góp đã được khẳng định của ông đối với công cuộc giải phóng và phát triển đất nước. Riêng tôi cứ ám ảnh không nguôi về nỗi trăn trở cuối cùng của ba tôi trong cuộc trò chuyện giữa hai cha con, chỉ không đầy hai tháng trước khi ông mất. Cuộc trò chuyện ấy là về thực trạng tàn phá rừng phòng hộ đầu nguồn – một nguyên nhân khiến lũ lụt ở miền Trung ngày càng diễn biến phức tạp; về mối lo ngại sâu sắc đối với cung cách trồng và quản lý rừng phòng hộ đặc biệt của các tỉnh miền Trung. Lũ quét ở miền Trung mỗi năm một dữ hơn, thiệt hại nặng nề hơn. Biến đổi khí hậu là một nguyên nhân. “Nhưng còn gì nữa nào? Quản lý rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng nguyên liệu có vấn đề gì nào? Thủy điện nữa?”. Biết ông sắp đi Hà Lan tìm hiểu cách trị thủy ở một quốc gia đất đai thấp hơn mực nước biển và ông muốn lắng nghe thêm tình hình lũ lụt trong nước, tôi mạnh dạn trao đổi với ông những gì tôi nắm được qua thực tế.
Rừng trồng ở nhiều tỉnh miền Trung sau sáu năm công phu chăm bẵm là khai thác trắng, băm chặt, vận chuyển đến cảng biển gần nhất để xuất khẩu dạng thô, cứ 1ha rừng trung bình được 50 tấn gỗ dăm mảnh thô xuất khẩu tại cảng Việt Nam (FOB) với giá rẻ bèo chỉ 100 USD/tấn, chẳng đủ bù đắp cho người trồng rừng! Việc trồng lại rừng không cách gì kịp với tốc độ chặt rừng. Hàng ngàn hecta rừng phòng hộ hiện nay chỉ trồng cây gỗ thuộc nhóm thấp thay vì trồng các loại cây gỗ quý có giá trị cao và lâu năm như lim, dầu, sao, sến… Nếu rừng phòng hộ cũng trồng keo lai, bạch đàn bên cạnh các cây có giá trị thấp khác, đến tuổi là phải thu hoạch, không khai thác trắng thì cũng cho chặt tỉa có tuyển chọn. Đâu dễ biết cây nào thuộc diện được phép chặt tỉa, cây nào không để kết tội vi phạm khi ra cửa rừng? Đây chính là kẽ hở, là cơ hội làm rỗng ruột rừng phòng hộ. Nạn mất diện tích rừng rất nhức nhối, gây tác hại ghê gớm cho môi trường, có nguyên nhân của cơ cấu cây rừng phòng hộ, có nguyên nhân buông lỏng quản lý khai thác mà khi ấy vẫn chưa có giải pháp khắc phục.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt cùng gia đình con trai Phan Thanh Nam. Ảnh: TLGĐ
Ba tôi ngồi nghe với ánh mắt lo lắng xen lẫn bất lực, ghi chép rất lâu, nhắc anh Trịnh thư ký gọi điện chỗ này, chỗ khác. Ông đã rời nhiệm vụ điều hành lâu rồi mà chưa bao giờ rời trách nhiệm công dân. Những nguy cơ, hiểm họa của thực tại đất nước cứ bám riết tâm trí ông. Cái dáng ông ngồi bên cây bút, cuốn sổ mỗi lúc như còng xuống… Cái dáng ngồi ấy và những câu hỏi đầy trăn trở của ông trong cuộc trò chuyện cuối cùng của hai cha con về tình hình đất nước hiện lên trong óc tôi khi ngồi bên thi hài ông trên chiếc máy bay y tế từ Singapore về Tân Sơn Nhất ngày 11.6.2008.
Cuộc trò chuyện cuối cùng với ba tôi ám ảnh tôi đến tận bây giờ và chắc còn rất lâu nữa…
***
Ngày rời Hà Nội về sống với ba ở Sài Gòn sau tháng 4.1975, cái gì với tôi cũng lạ lẫm. Đông đúc, ồn ào, đa dạng từ hàng quán đến cách ăn, kiểu nói. Tôi đi học đại học, còn ba thì bận bịu suốt ngày. Cán bộ lãnh đạo ai cũng bận như thế trong một thành phố mới vừa được giải phóng. Nhưng ba tôi có lẽ bận hơn những người khác là vì ông siêng “đi xóm” vào các ngày cuối tuần. “Đi xóm” là cách ba tôi gọi những cuộc đi thăm cơ sở. Khi thì một nông trường của Thanh niên Xung phong, khi thì một công trình đang xây dựng, một trường hoặc trại tập trung giáo dục các thành phần tệ nạn xã hội như mãi dâm, ma túy. “Đi xóm” gần thì quanh quanh Sài Gòn. “Đi xóm” xa thì Cần Giờ, Trị An, Đăk Nông. Trong ký ức của tôi, đáng nhớ và thú vị nhất có lẽ là những lần được ba rủ “đi xóm”: “Đi đi, vui lắm. Để đàn đó, lúc nào tập cũng được”.
Buồn cười là có lần, một học viên nam ở trại cai nghiện khi thấy tôi đi lang thang trong trại đã hỏi: “Cô ở trại nào, học viên khóa mấy (!)”. Đi xóm với ba riết, các tổng đội Thanh niên Xung phong bỗng dưng trở thành địa chỉ quen thuộc của tôi. Ba nhờ tôi đến đó thăm bệnh, tặng ai đó món quà, dự đám cưới của anh chị Võ Thị Bạch Tuyết và Thiều Hoành Chí… Nhớ lại những lần cùng ba tôi đi thăm các nông trường Phạm Văn Cội, Đỗ Hòa, Đắk Nông… ba mươi năm trước, tôi nhớ hoài hình ảnh các anh chị Thanh niên Xung phong lao động hăng say trên những cánh đồng khô cháy hoặc ngập nước. Chợt thấy chạnh lòng khi so sánh nét chân chất, trong sáng của các anh chị ngày ấy với hình ảnh của chính lực lượng này hôm nay, có gì đó rất khác.
Để kết lại chuyện “đi xóm”, ba tôi quả là người giỏi “dân vận”: ngoài tôi, sau này ông còn rủ được cả các cháu nội, ngoại “đi xóm” với ông! Không chỉ đi cùng, cháu ngoại Xuân Hà, cháu nội Võ Hiệp còn đàm đạo với ông những gì các cháu nhận biết bằng trí óc non trẻ khiến ông rất thích thú.
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cùng con gái Hiếu Dân và cháu ngoại Xuân Hà. Ảnh: TLGĐ
Hồi tôi tốt nghiệp Khoa Sinh học Đại học Tổng hợp, được về làm việc tại Phân viện Khoa học Việt Nam ở phía Nam (đường Mạc Đĩnh Chi, chúng tôi tôi thích lắm vì đúng chuyên môn và sở thích nghiên cứu của tôi. Vậy mà khi về đây, trong hai năm liền tôi chỉ được giao làm mỗi nhiệm vụ… rửa ống nghiệm, không được biết tới phòng thí nghiệm là gì! Mơ ước được cấy mô trong phòng thí nghiệm tưởng như bong bóng xà phòng trước gió. Cũng phải nói thật là tôi có thắc mắc (với chính mình thôi): vì sao kết quả tốt nghiệp của tôi tốt, tôi có chuyên môn không tồi mà lại phải làm nhiệm vụ rửa ống nghiệm lâu thế! Sau mới biết, hóa ra ba tôi đã nhờ người nói với Phòng tổ chức của Phân viện đừng ưu ái tôi hơn người khác và họ đã thực hiện… hơi quá.
Là con của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chúng tôi đã được sống trong hào quang của ông. Nhưng điều chúng tôi có thể làm, đó chính là sống sao để cho bản thân không phải chạy trốn hào quang của cha mình hoặc gục ngã trong chính hào quang ấy.
Sau hơn mười năm làm chuyên môn sinh học ở Phân viện Khoa học và Viện Cây có dầu, tôi chuyển về làm việc ở Phòng kỹ thuật IMEXCO. Khi con gái Xuân Hà của tôi đã tương đối lớn, tôi bỗng muốn được thử thách mình bằng việc chuyển sang một lĩnh vực mới hoàn toàn: làm doanh nghiệp may gia công xuất khẩu cho khách hàng Nhật Bản. Lúc đó, Nhật là thị trường duy nhất không cần quota, nghĩa là không cần tới ảnh hưởng của ba tôi khi ấy đã giữ trọng trách trong Chính phủ. Nghe tôi bày tỏ ý nguyện chuyển sang lĩnh vực doanh nghiệp, ba tôi chỉ nói đúng một câu: “Ba tin vào sự tự chịu trách nhiệm của con”. Từ ngày đó, ông không cần phải nhắc nhở tôi thêm lần nào nữa.
Gần 30 năm làm tổng giám đốc của một doanh nghiệp đa ngành: may mặc, gia công xuất khẩu, giáo dục và văn hóa giải trí, bất động sản nghỉ dưỡng… tôi đã luôn chăm chút xây dựng văn hóa doanh nghiệp cho đội ngũ nhân viên với các tiêu chí: chăm chỉ, tận tâm, trung thực và hiệu quả. Niềm tự hào nhỏ bé của tôi là nhân viên giỏi của công ty tôi chuyển đến nơi nào cũng được đánh giá cao và được phân bổ vào vị trí quản lý chủ chốt. Nếu có điều gì tôi luôn tự răn mình trong mấy chục năm dốc sức trên thương trường thì đó chính là: bản thân mình vốn không có tố chất làm doanh nhân, phải rèn luyện không ngừng để làm được công việc mình đã lựa chọn, ráng sống tử tế, kinh doanh tử tế, làm người tử tế. Bởi vì tôi biết, chỉ có làm được điều tự răn ấy tôi mới xứng đáng với mong đợi lặng lẽ của ba tôi.
Tôi và anh tôi không thể chối bỏ một thực tế (mà chối bỏ làm gì): là con của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chúng tôi đã được sống trong hào quang của ông. Nhưng điều chúng tôi có thể làm, đó chính là sống sao để cho bản thân không phải chạy trốn hào quang của cha mình hoặc gục ngã trong chính hào quang ấy.
Đã mười năm nay tôi không còn được dựa vào vai ba tôi để khoe nho nhỏ với ông những gì tôi đã cố gắng đạt được trong cuộc sống và công việc. Mỗi khi nhớ ông, nhớ ghê gớm, tôi lại không cầm được nước mắt xúc động khi nhớ đến câu nói của chú Việt Phương: “Gần gũi anh Sáu Dân nhiều năm, chưa bao giờ tôi thấy anh Sáu có niềm vui rạng rỡ đến thế khi nghe tin con gái anh có kết quả xét nghiệm không phải K. Nét rạng rỡ đó ở anh mới con người làm sao, mới Dân làm sao”.
Ba ơi!…
Cha và con và… karaoke. Ảnh: TLGĐ
Nguyễn Thế Thanh (thực hiện)
Bạn đang đọc nội dung bài viết Vị Tướng Kiệt Xuất Trần Quốc Tuấn Và Bài Học Cho Người Trẻ trên website Altimofoundation.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!