Đề Xuất 6/2023 # Tục Ngữ Ca Dao Về Ngày Tết Nguyên Đán # Top 8 Like | Altimofoundation.com

Đề Xuất 6/2023 # Tục Ngữ Ca Dao Về Ngày Tết Nguyên Đán # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Tục Ngữ Ca Dao Về Ngày Tết Nguyên Đán mới nhất trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Chuyện xưa kể rằng: Vào một thời xa xưa lắm, người đang sống yên ổn thì một bầy quỷ dữ đến xâm lăng. Chúng dùng mưu mô quỷ quyệt chiếm hết đất đai, tài sản của người. Người thành kẻ làm công cho quỷ. Người trồng lúa, quỷ chia cho người phần gốc, quỷ lấy phần ngọn. Thấy người khổ quá, Phật hiện ra giúp kế. Theo điều kiện đã được giao ước đúng như lời Phật dặn, người trồng khoai lang. Đến mùa thu hoạch, quỷ lấy phần ngọn chỉ có dây và lá, người lấy phần gốc, củ chất đầy nhà. Quỷ lại đặt điều kiện: quỷ ăn phần gốc và ngọn, người ăn phần giữa. Lại theo lời Phật dặn, người trồng bắp. Đến mùa, người lấy hết trái, quỷ chẳng có gì để ăn. Quỷ thua bèn đòi lại đất. Phật khuyên người nên xin quỷ bán cho mình một mảnh đất bằng bóng của một chiếc áo cà sa. Quỷ bằng lòng. Phật bảo người trồng một cây tre rồi máng chiếc áo cà sa lên ngọn. Phật hóa phép làm cây tre cao mãi, cao mãi đến tận trời và bóng chiếc áo cà sa lan xa càng lúc càng rộng. Quỷ phải dắt dìu nhau chạy ra ngoài bóng râm của chiếc áo. Cuối cùng quỷ bị đuổi ra mãi ngoài tận biển Đông. Người lại làm chủ vùng đất của mình. Từ đấy, quỷ xin với Phật hàng năm cho vào đất liền để thăm mồ mả tổ tiên. Phật bằng lòng cho quỷ vào đất liền nhân ngày Tết Nguyên đán của người. Phật dặn người nên trồng cây NÊU trước nhà vào những ngày này để cho quỷ không thể xâm phạm đến người.

Trên đây là sự tích cây nêu ngày Tết của ta. Thế nên ca dao ta có câu:

Thứ nhì pháo kêu.

Nhà có cây nêu cao là nhà giàu sang quyền quí. Tràng pháo nổ giòn và đều là báo hiệu điềm tốt cho gia chủ.

Quả vậy, vào những ngày năm cùng tháng tận, đa số dân ta lo lắng đủ điều. Nào là nợ nần chưa trang trải. Nào là công việc chưa hoàn thành. Nào lo sắm sửa cho 3 ngày Tết. Nào lo sửa sang nhà cửa để đón Xuân…

Thật là trớ trêu. Tiền không có mà tiếng còi của gánh hát Quảng Đông lại quyến rũ, thúc dục. Về nhà thì nợ đòi. Mà nợ đòi thì nguy lắm. Các chủ nợ có lệ cuối năm giằng thúc con nợ, cố đòi cho được số tiền đã cho vay, dù rằng đòi được tiền về để đấy. Người ta cho rằng, nếu không đòi được tiền trước giao thừa, ngày hôm sau, món tiền nợ đã ra nợ cũ, và ngày Mồng một đầu năm và những ngày sau nữa, người ta không dám đòi nợ, vì con nợ kiêng sợ giông.

“Tục lệ như vậy nên cái ngày tất niên này, những người có nợ làm ăn kém may mắn, không có tiền trả mà phải khất chủ nợ không chịu, đành phải đi trốn nợ đến lúc giao thừa mới trở ve”.

Tục ngữ lại có câu:

Giàu có Ba mươi Tết mới hay.

Trên đây là những quan sát thực tế của người bình dân ta ngày xưa. Kẻ khôn ngoan là kẻ khéo biện bạch trước cửa quan (tức cơ quan chính quyền hàng Xã, Tổng, Huyện…) để giành lẽ phải về mình. Mùa Đông là mùa giá rét. Nhiều công việc làm ăn hầu như đình trệ. Đây thường là khoảng thời gian đem lương thực dự trữ ra để ăn. Nhà giàu có của dự trữ nên không lo. Nhà nghèo phải đi vay từng đấu gạo. Đến ngày giáp Tết, nhà giàu sắm sửa ề hề, dân nhà nghèo đôi khi còn phải lo trốn nợ. Thế nên dù ai có tài khoe mẽ đến đâu, đến ngày giáp Tết là người ta biết hết, không thể nào giấu giếm được.

Con cháu không thể bỏ được ngày giỗ chạp bời vì “con cháu muốn tròn đạo hiếu với tổ tiên thì những ngày kỵ Chạp, Tết nhứt phải cúng cấp tử tế. Những người bỏ giỗ bỏ Tết là bất hiếu chi cực”.

Lạy bàn thờ gia tiên quả một điều hệ trọng. “Về Tết Nguyên đán, từ ngày 29 tháng Chạp, gia trưởng phải làm lễ Rước Ông Bà. Trong 3 ngày Tết, suốt đêm ngày lúc nào cũng có hương đèn và lễ vật để cúng tổ tiên. Đến chiều Mồng 3 hay sáng Mồng 4 thì làm lễ Đưa Ông Bà để đốt vàng mã cúng trong 3 ngày Tết”.

Lệ tết thầy của ta ngày xưa thật đẹp. Đó là tinh thần “tôn sự trọng đạo”, là tinh thần “tiên học lễ, hậu học văn”. Học trò học nghề hay học chữ, ở với người dạy cho mình đều có nghĩa thầy trò. Học trò phải kính trọng thầy, quý mến thầy mà nhất là thầy dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa.

“Lúc học, gặp khi mồng Năm ngày Tết như: Tết Nguyên đán, Thanh minh, Đoan ngọ, Trung thu,… mùa nào thức nấy, hoặc cặp gà thúng gạo, đường mứt bánh trái hoặc năm ba quan tiền, tùy tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy”.

Trong các tục lệ về ngày Tết, ta có tục xông đất hay xông nhà đầu năm. Theo tục lệ nầy, có nhiều người tin rằng, có người vía xấu đến xông đất nhà nào (tức là người đến chúc Tết đầu tiên) nhà đó sẽ gặp điều xui xẻo quanh năm. Vì thế, “nếu không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng Một Tết đến xông nhà, trước khi có khách đến chúc Tết, để người này đem sự dễ dãi may mắn lại”.

Ngày vía đất có lệ cúng đất. “Ở nhà quê miền Nam, đến ngày 10 tháng Giêng người nhà nông làm lễ cúng đất. Nghi lễ rất giản dị. Nhà khá giả thì dọn mâm cơm có gà vịt đem ra ruộng cúng rồi cùng nhau ăn uống tại chỗ. Ở nhà thì dọn lễ vật ra cúng tại bàn thờ Thổ Địa đặt trong nhà. Lễ vật cũng đơn giản: con gà, miếng thịt hoặc rút gọn chỉ còn bộ tam sên với đĩa gạo, muối”.

Vào 3 ngày Tết, các làng thường tổ chức các trò chơi tại sân đình, sân chùa hay một khoảng đất trống nào đó để dân làng tụ tập vui Xuân. Các trò chơi thông thường gồm có: cờ người, tổ tôm điếm, đánh đu, ném cầu, chọi gà, đô vật,… Ngoài dịp Tết Nguyên đán, các làng còn tổ chức hội Xuân vào các ngày Thần kỵ tức ngày húy kỵ của vị Thành hoàng của làng. Các lễ hội này thường được tổ chức vào mùa Xuân hay mùa Thu vời nhiều trò chơi đặc biệt hơn.

Thực ra, các nơi vui Xuân không phận biệt ra từng ngày rạch ròi như trên mà còn tùy thuộc vào từng hạng người, từng lứa tuổi. Phần lớn các người đứng tuổi thích tụ tập về sân đình, sân chùa để thưởng thức các trò vui Xuân, lớp con cháu lại thích tụ tập ở các nơi xóc đĩa, bầu cua, đánh đáo…

Đây là một hội bài chòi được nhà văn Võ Phiến thuật lại theo tài liệu của nhà thơ Quách Tấn: “Trên một khoảnh đất, dựng lên 9 cái chòi. Các chân bài, mỗi chân chiếm một chòi. Người ta dùng bộ bài Tam Cúc 27 cặp, đem mỗi lá bài dán vào một thẻ tre. Bộ bài chia ra làm đôi: một nửa bỏ vào ống do người hô hiệu giữ, một nửa đem phân phối cho 9 chòi, mỗi chòi 3 lá. Lúc vào cuộc, anh hiệu rút bài trong ống ra, hô lên, chòi nào trúng lá ấy thì gọi hiệu đem lại. Khi có một chòi trúng đến lá thứ 3 là xong một ván. Người hô hiệu thu hết bài, trộn nhau, rồi lại phát ra mỗi chòi 3 lá để bắt đầu lại ván khác. Cứ thế cho đến 8 ván là mãn hội”.

Phần lớn những người thích chơi bài chòi là thích cái điệu hô đặc biệt gọi là hô bài chòi của các tay hô hiệu.

Đây là hai phiên chợ Tết đặc biệt của Nam Định xưa: chợ Yên mỗi năm chỉ họp một phiên vào ngày 26 tháng Chạp. Đây là một phiên chợ Tết thật sầm uất với đầy đủ mặt hàng Tết cho người lớn và trẻ con, quy tụ khá đông đảo người quanh vùng về mua sắm.

Chợ Viềng lại họp vào ngày 8 tháng Giêng. Tương truyền ngày xưa ở Nam định có đến 3, 4 chợ cùng mang tên chợ Viềng. Chợ Viềng chính nằm ở xã Kim thái, huyện Vụ bản; họp phiên đầu năm vào mùng 8 tháng Giêng, quy tụ dân quanh vùng. Dân vùng này tin rằng buôn bán vào ngày này sẽ gặp may mắn quanh năm. Do đó, nếu gặp những ngày có mưa gió, lại gặp đò ngang cách trở, dân buôn tự động họp chợ ở một nơi nào đó để buôn bán gọi là “lấy ngày”, cầu may cho cả năm. Thế là một phiên chợ Viềng mới được thành hình. Sau phiên chợ họp lấy may đầu năm đó chợ không còn để lại một dấu vết nào. Năm sau hoặc những năm sau nữa, nếu lại gặp trở ngại như trên, dân buôn quanh vùng lại hình thành một chợ Viềng khác, có thể là ở vùng đất năm trước hay một nơi nào khác. Những phiên chợ Viềng này mỗi năm chỉ họp một lần thôi.

Gia Lạc là một phiên chợ đặc biệt gần thôn Vĩ Dạ, hằng năm chỉ họp vào mấy ngày Tết: từ 29 tháng Chạp đến mồng 3 Tết. Tương truyền đây là phiên chợ đặc biệt do vị hoàng tử thứ 4 của Vua Gia Long là Nguyễn Phúc Bính cho lập vào 3 ngày Xuân trên một khoảnh đất rộng gần phủ đệ của ông để cho các người trong hoàng phái đến sắm hàng Tết và vui Xuân như đánh bài chòi, đổ xăm hường, đánh đáo lỗ… Chợ tập trung được nhiều mặt hàng Tết nhất là đồ chơi cho trẻ con do dân các phủ huyện lân cận sản xuất và mang về bán. Dần dần về sau dân quanh vùng cũng được tham dự trong các sinh hoạt của phiên chợ Tết này và mỗi năm chợ cũng chỉ họp vào 3 ngày Tết mà thôi.

Dưng là tên nôm na của làng Văn Trưng thuộc phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Yên. Hàng năm làng Văn Trưng mở hội Xuân vào ngàymùng 6 tháng Giêng. Chợ Dưng tọa lạc gần đình làng Dưng và mở phiên chợ đầu năm cũng vào mùng 6 tháng Giêng. Vừa gặp ngày hội Xuân, vừa gặp phiên chợ đầu năm nên chợ Dưng vào ngày này thật đông đúc. Ngoài việc buôn bán lấy may, dân chúng còn được thưởng thức các trò vui Xuân, đặc biệt là trò chơi trai gái bắt chạch trong chum.

Xứ Nam, xứ Bắc, xứ Đoài là tên gọi nôm na của các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc và Sơn Tây ngày xưa.

Mồng một chơi cửa, chơi nhà Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình. Mông bốn chơi chợ Quả linh Mồng năm chợ Trình, mùng sáu non Côi. Qua ngày mồng bảy nghỉ ngơi Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng Chợ Viềng năm có một phiên Cái nón em đội cũng tiền anh mua.

Tết Nguyên đán là ngày lễ cổ truyền trọng đại của dân tộc Việt Nam.

Trên đây chúng tôi đã nêu lên một số tục ngữ ca dao phản ảnh một số tập tục và hình ảnh quen thuộc của ngày lễ trọng đại đó.

Ngày nay, vì hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, một phần con dân Việt phải sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Thế nhưng, dù sống trong hoàn cảnh nào, châu lục nào, quốc gia nào người Việt ta cũng vẫn nhớ đến ngày Tết cổ truyền của dân tộc và vẫn tổ chức những hội vui Xuân một cách trọng thể. Tổ chức vui Xuân để giử gìn truyền thống Việt và quảng bá phần nào văn hóa Việt với các sắc dân khác đang cùng sống trên một địa bàn với chúng ta. Đó là ý nghĩa quan trọng của ngày Tết Nguyên đán mà chúng ta vẫn thường tổ chức hằng năm.

Đào Đức Nhuận

Trở lại trang Mục Lục

Ca Dao Xuân, Tục Ngữ Tết

Theo sách “Le Khmer”, trước kia dân Việt ăn Tết theo Trung Quốc, nhưng cũng có thời gian dân Việt ăn Tết theo Chiêm Thành. Tết này bắt đầu vào tháng Hai âm lịch, có đủ lễ lạc, vui chơi, hát xướng, rượu chè,… trong ba ngày liên tiếp, nhưng người ta cũng đi thăm viếng nhau, và cũng có nhiều điều kiêng cữ. Trong mấy ngày ấy, dù gặp kẻ thù thì người ta cũng chào và chúc mừng nhau. Theo tục lệ người Chiêm, ngày ấy là ngày “xóa bỏ hờn giận”. Ý nghĩa Tết như vậy rất nhân bản, tốt lành và cao thượng.

Trẻ em còn vô tư nên háo hức mong Tết mau đến. Người lớn có những người cũng mong Tết, nhưng sự mong chờ của họ mang “ý nghĩa” khác hẳn so với trẻ em, thậm chí có người thực dụng, họ mong Tết để có lợi về vật chất.

Tuy nhiên, có những người không hề mong Tết, họ nghèo khổ quá nên họ sợ Tết, nếu có thể thì họ chỉ mong “đừng có Tết”. Buồn lắm thôi! Nhưng thời gian cứ luân phiên, tứ thời bát tiết tuần tự theo quy luật tự nhiên của đất trời. Cứ đến cuối năm thì những người nghèo lại “giật mình” như điện giật, như chớp bể mưa nguồn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng, con cháu thì lo”. Cái lo ngày thường đã khiến họ rối trí rồi, cái lo ngày Tết làm họ càng nhức đầu hơn. Nỗi niềm không biết tỏ cùng ai. Nỗi khổ cứ chồng chất, làm sao vui được!

Cả năm đầu tắt mặt tối, bán lưng cho trời bán mặt cho đất, từ sớm tới khuya không ngơi tay, thế mà vẫn chẳng thấy chút niềm vui: “Đi cày ba vụ, không đủ ăn ba ngày Tết”. Nghe người ta chúc giàu sang phú quý mà thêm mủi lòng, cũng đành cười gượng để gọi là Xuân. Người nghèo đáng thương biết bao!

Ngày Tết là dịp vui Xuân, bù đắp những ngày tháng cực nhọc vất vả suốt năm, có lợi cho cả tinh thần và thể lý. Nhưng thương thay, có những người “gọi là” nghỉ ngơi ăn Tết mà lòng vẫn lo ngay ngáy:

Bây giờ tư Tết đến nơi

Tiền thì không có sao nguôi tấm lòng

Nghĩ mình vất vả long đong

Xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi

Về nhà công nợ nó đòi

Mà lòng bối rối đứng ngồi không yên.

Khổ quá! Bình thường thì chẳng ai biết ai thế nào, nhìn thấy họ vất vả nhưng chưa chắc khổ, hoặc nhìn thấy họ nhàn hạ nhưng chưa chắc sướng. Có “cháy nhà mới lòi mặt chuột”. Kinh nghiệm dân gian cũng cho biết: “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có Ba mươi Tết mới hay”. Hoặc như ca dao phân tích:

Có, không: đến mùa Đông mới biết

Giàu, nghèo: ba mươi Tết mới hay.

Chuyện giàu – nghèo đã vậy, như một quy luật muôn thuở, như “phần cứng” đã được “cài đặt” mặc định rồi, chẳng ai dám nhận mình hiểu hết ngọn nguồn.

Chuyện tình cảm đôi lứa cũng rắc rối, phiền toái. Bảo là yêu nhau nhưng hành động lại không thể hiện tình yêu đó. Cô nàng trách anh chàng: “Chiều Ba mươi anh không đi Tết, rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ, hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công”. Và rồi anh chàng cố gắng phân bua, biện minh cho sự “lỡ hẹn” của mình, mong cô nàng cảm thông: “Hôm Ba mươi anh mắc lo việc họ, sáng mồng Một anh bận việc làng, ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi!”. Nhiêu khê quá! Ai bày Tết nhất làm chi không biết!

Tết là thế đó. Tết vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Tết cũng có biết bao phong tục, nghi thức, lễ nghĩa,… mà người ta phải thực hiện – dù muốn hay không. Một trong các nghi thức chứng tỏ lễ nghĩa là nhớ ơn người khác: “Mồng một tết Cha, mồng hai tết Chú, mồng ba tết Thầy”. Đó là “công thức” chung. Riêng nam giới hoặc quý ông đã có vợ thì có “kiểu” lễ nghĩa khác một chút, nhưng cũng không ngoài chuyện nhớ ơn. Ca dao nói:

Mồng một thì ở nhà cha

Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy.

Tết còn là dịp nhắc nhở người ta phải sống chân thật, không được lọc lừa, giả dối, ăn không nói có,…

Hễ ai mà nói dối ai

Thì mồng một Tết, Ba Giai đến nhà.

Đó là câu ca thể lục bát đã có từ khi Ba Giai và Tú Xuất còn sinh thời. Ba Giai là một biệt danh của một danh sĩ Việt Nam nổi tiếng hồi cuối thế kỷ XIX. Ông được biết nhiều bởi tài làm thơ châm biếm, với “đối tượng” chính là các quan lại tham nhũng, các trọc phú. Trong giai thoại dân gian, ông được biết đến là người trong cặp bài trùng với Tú Xuất. Tuy nhiên, theo lời truyền tụng trong dân gian và ý kiến của một số nhà nghiên cứu, Ba Giai còn có thể là tác giả của một thi phẩm chính luận “Hà Thành Chính Khí Ca”, gồm 140 câu thơ lục bát, được cho là sáng tác ngay sau khi Hà Nội bị quân Pháp xâm chiếm ngày 25-4-1882.

Ba Giai có tên thật là Nguyễn Văn Giai, không rõ năm sinh và năm mất. Có thể ông sống vào khoảng thời gian triều đại các vua Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883), người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, TP Hà Nội). Ông là con thứ ba trong gia đình nên người ta gọi là Ba Giai. Gia cảnh nghèo khó, cha mẹ mất sớm, ông đi làm thuê để có tiền ăn học. Ông học giỏi, nhưng gặp lúc nước nhà lâm cảnh loạn lạc, nên ông không được đi thi. Không rõ Ba Giai gặp và kết bạn với Tú Xuất thế nào và lúc nào, có thể hai ông thường gặp nhau vào thời gian giữa hai lần quân Pháp đánh chiếm Hà Nội (1872 và 1882). Có lẽ cùng từ quan hệ học hành thi cử mà hai ông kết thân với nhau.

Tục ngữ có câu: “Mồng chín vía Trời, mồng mười vía Đất”. Có những thứ con người muốn mà không làm già được, thế nên người ta vẫn tin vào thần linh vô hình. Ngoài ra người ta còn có nhiều kiểu vui chơi trong mùa Xuân. Riêng vùng đất Nam Định có những câu ca dao giới thiệu những phiên chợ của họ một cách thú vị:

Mồng một chơi cửa, chơi nhà

Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình

Mông bốn chơi chợ Quả linh

Mồng năm chợ Trình, mồng sáu non Côi

Qua ngày mồng bảy nghỉ ngơi

Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng

Chợ Viềng một năm mới có một phiên

Cái nón em đội cũng tiền anh mua.

Ngày xưa, dân chúng chủ yếu là nông dân, công việc đồng áng theo mùa, có lúc vất vả nhưng có lúc lại nông nhàn. Vì thế, người ta ăn Tết không chỉ mấy ngày đầu Xuân mà người ta vui vẻ suốt tháng Giêng, rồi còn “lai rai” cả những tháng ngày kế tiếp:

Tháng Giêng là tháng ăn chơi

Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè.

Ca dao và tục ngữ là kho tàng văn chương quý giá, tuy bình dân nhưng vẫn sâu sắc và chứa nhiều bài học sống giá trị. Ngày Xuân có dịp đọc lại và ngẫm nghĩ về ca dao và tục ngữ thì thật là thú vị.

Không hiểu vì sao người ta lại nói là “tết nhất”. Có thể do “vui nhất” – bởi vì người ta nói “vui như Tết” mà. Cũng có thể do “thảnh thơi nhất” và “ăn chơi nhiều nhất”. Dù sao thì Tết vẫn là nhất, nhưng cũng có cái mệt, có cái mệt nhưng lại cũng có cái “khác thường”. Xuân thật lạ, và đúng là “Tết nhất” thật!

Thế nên, dù mệt thì cũng đáng để mệt trong niềm vui ngày Tết. Cũng vì thế, nhân dịp Xuân Mậu Tuất, xin tản mạn đôi dòng để “tám chuyện” về Con Chó.

Chúng ta biết rằng Dụ Ngôn cũng được gọi là Ngụ Ngôn. Hai danh từ này có nghĩa tương đương nhưng cũng có nghĩa khác nhau.

– Ngụ ngôn (Anh: parable, fable; Pháp: parabole, fable) là một câu chuyện ngắn, đơn giản, bằng văn xuôi hoặc văn vần, mang tính hoang đường, truyền thuyết, hư cấu, “bịa” ra kiểu chuyện phiếm, nhưng vẫn có bài học luân lý, mang tính giáo dục để răn đời; các nhân vật thường là vật hoặc con vật được nhân cách hóa, các nhân vật cũng có thể là con người hoặc thần linh.

– Dụ ngôn (parable, parabole) cũng là một câu chuyện ngắn, đơn giản, bằng văn xuôi, nhưng khác là mang tính bí ẩn, mang tính tục ngữ, đặc biệt là mang chiều kích tâm linh. Chúa Giêsu thường sử dụng thể loại này, tức là Ngài dùng “dụ ngôn” chứ không dùng “ngụ ngôn”.

Chúa Giêsu sử dụng dụ ngôn để minh họa chân lý, dùng hình ảnh thực tế trên thế gian nhưng mang ý nghĩa trên trời. Ngài thích sử dụng dụ ngôn, có lẽ vì loại văn này độc đáo, như Kinh Thánh đã xác nhận: “Ngài không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13:34; Mc 4:34). Có khoảng 35 dụ ngôn trong các Phúc Âm nhất lãm.

Có câu chuyện ngụ ngôn “Con Chó và Con Lừa” kể rằng…

Ngày xưa, có một người đàn ông sống trong một ngôi nhà nhỏ ở nông trại. Ngôi nhà của ông có rất nhiều bàn ghế đẹp còn nông trại thì trồng rất nhiều loại rau củ ngon. Ông rất tự hào về ngôi nhà và nông trại của mình.

Ông có nuôi một con lừa và một con chó nhỏ. Cả hai con đều được chủ chăm lo theo cách riêng khác nhau.

Hàng ngày, con lừa làm việc ở nông trại. Nó làm việc rất siêng năng. Nó được chủ xây cho một cái chuồng để ở vào ban đêm. Đó là một cái chuồng ấm áp và rất thoải mái. Thế nhưng, con lừa lại không bằng lòng với điều đó. Nó luôn nghĩ về con chó nhỏ: “Mình phải kẻo xe và chở hàng cả ngày dài, còn con chó nhỏ ngu ngốc đó chỉ việc chơi đùa mà lại được mọi người quan tâm!”.

Mà quả thật, con chó nhỏ suốt ngày chơi đùa ở nhà. Nó rất thích chơi đùa và chơi đùa rất khéo. Chính vì thế, mọi người trong nhà đều thích nựng nó.

Sau một ngày nô đùa, tối đến, con chó nhỏ lại được ngủ trong căn phòng ấm áp ngay bên cạnh chủ nhân. Trong bữa ăn, con chó nhỏ thường làm những trò mà nó giỏi nhất. Nó ngồi trong lòng ông bà chủ và ăn những thức ăn thật ngon. Nó thật là một con chó may mắn!

Con lừa nhìn qua cửa sổ và cảm thấy rất ganh tỵ. Nó nghĩ: “Con chó đó phải rất khôn ngoan đế được ông bà chủ chú ý, cưng chiều và được ăn ngon mà chẳng phải làm gì cả như thế”. Nó thầm nghĩ: “Ước gì mình có thể giống con chó đó. Ông bà chủ sẽ cưng chiều mình và mình chẳng cần phải làm gì ngoài việc chơi đùa cả”.

Rồi một ngày nọ, nó chạy vào trong nhà và bắt đầu nô đùa giống như con chó nhỏ. Nó nhảy chồm khắp phòng. Nhưng vì quá to lớn và vụng về nên nó liên tục va vào đồ đạc, khiến căn phòng trở nên bề bộn vô cùng. Nó nghĩ “Không sao” và cố sủa giống như con chó nhỏ. Thế nhưng tất cả những gì nó phát ra được chỉ là tiếng “be be” mà thôi.

Khi nhìn thấy những thức ăn thơm ngon trên bàn, nó bèn nhảy chồm lên lòng ông chủ giống như con chó nhỏ kia. Nó thầm nghĩ: “Đây có thể là bí quyết”. Giờ thì ông chủ sẽ đế ý đến mình, cưng chiều mình và cho mình ăn những thức ăn ngon giống như con chó nhỏ ranh mãnh kia”.

Thế nhưng người chủ lại tỏ ra rất tức giận. Ông nhảy lên và hét lớn: “Đồ con vật vụng về! Mày nghĩ mày đang làm gì hả? Mày là con lừa chứ không phải con chó nhỏ đâu!”. Nói rồi ông vớ lấy cây chổi và đuổi con lừa trở về chuồng. Bà vợ chạy sau, tay cầm cái chày cán bột còn con chó nhỏ chạy sau cùng!

Con lừa vừa kêu vừa chạy về chuồng của mình: “Be be… Be be…”. Nó tự nguyền rủa mình thật ngu ngốc khi giả bộ làm con chó nhỏ. Tốt hơn nhất cứ là con lừa, làm những việc mà một con lừa nên làm, ăn thức ăn dành cho lừa và ngủ trong cái chuồng của lừa.

Con lừa tự nhủ: “Mình không giỏi làm con chó nhỏ, từ nay mình sẽ chỉ là lừa thôi”. Kể từ đó, nó chỉ làm những việc của một con lừa.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Chó đen giữ mực”. Ý nói về tính bảo thủ, cố chấp, không phục thiện. Người ta cũng có câu: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”. Đó là nói về bản chất cố hữu của con người, không dễ gì thay đổi. Tự nhiên, khó thay đổi chứ không phải là không thể thay đổi, khó mà có thể thay đổi thì chắc chắn nên thánh.

Người này không thể là người khác. Chó đen không thể là chó trắng, chó vàng hoặc chó đốm. Chắc chắn như vậy. Nhưng người ta có thể “trở nên giống như người khác” bằng cách noi gương tốt của người khác. Ví dụ: Noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, các thánh,…

Mỗi người đều có một hoặc hai tặng phẩm. Không ai không có. Không ai bất tài, vô dụng. Thiên Chúa tạo dựng mỗi người đều có mục đích theo sự quan phòng và tiền định của Ngài. Chúng ta không thể kiêu hãnh về ơn riêng của mình mà chê trách người khác!

Ngày xưa, Thiên Chúa xác định với vua Ky-rô: “Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta” (Is 45:4). Và đó cũng là lời nhắn nhủ mà Thiên Chúa dành cho mỗi chúng ta vậy. Và hãy nghe lời Thiên Chúa giáo huấn chúng ta qua Kinh Thánh:

a. “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho MỖI NGƯỜI. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12:6-8).

b. “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, MỖI NGƯỜI trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1 Pr 4:10).

Làm được bất cứ điều gì cũng là nhờ Hồng Ân của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã minh định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5b). Thế thì có lý do gì để mà vênh vang tự đắc? Kiêu ngạo là ngu xuẩn và điên rồ. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa. Thánh Vịnh gia đã cảm nhận và xác nhận: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự” (Tv 139:13-16).

Con người dễ ảo tưởng nên dễ kiêu ngạo, thế nên Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Đừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho” (Rm 12:3). Mỗi người một việc, không việc nào hơn việc nào, không nghề nào trọng hơn nghề nào. Răng không thể chê môi yếu vì cứ phải dựa vào nó, nướu không thể ỷ lại mà chê răng không thể tự mình đứng vũng, lưỡi cũng không thể so bì với răng. Tất cả đều liên kết với nhau để thành cái miệng. Viên gạch nhỏ bé, nhưng mỗi viên gạch đều có công dụng để làm nên tòa nhà.

Con Lừa ảo tưởng nên sinh lòng ghen tỵ với con Chó, đến khi nó thử thể hiện vai trò của con Chó thì không thể. Chê và trách luôn đi đôi với nhau. Vì không vừa ý mình nên mới “chê” người khác, vì “chê” nên buông lời “trách” đủ thứ. Đó là lỗi đức ái.

Chính Thánh Phaolô cũng đã từng bị người ta trách là “đầy tham vọng”, và ông nói với họ: “Chúng tôi đâu dám cho mình ngang hàng hay so sánh mình với những kẻ tự cao tự đại kia. Nhưng khi họ lấy mình làm tiêu chuẩn để tự đánh giá và so sánh thì họ không được khôn” (2 Cr 10:12).

TRẦM THIÊN THU Xuân Mậu Tuất – 2018

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.

Ca Dao Tục Ngữ Về Rồng

Details Category: Kỹ năng mềm Published on Monday, 12 February 2018 02:12 Written by cudinhlang Hits: 5233

Rồng trong thành ngữ và tục ngữ Việt NamRồng lúc to lúc nhỏLớn thì đào sơn đảo hải – nhỏ ẩn tích tàn hình

Đa mưu túc trí muôn đời thịnh Hữu dũng vô mưu vạn đời suy Ghen ăn tức ở muôn đời nát Khiêm tốn nhường nhịn vạn kiếp sang.

Là con vật huyện thoại nhưng phổ biến, vừa cao quý, độc đáo, diệu kỳ lại vừa thân quen, gần gũi và giàu ý nghĩa biểu tượng, rồng (long) được lấy làm hình ảnh ẩn dụ sinh động cho nhiều câu thành ngữ, tục ngữ rộng rãi mà thâm thúy của người Việt Nam.* Ăn như rồng cuốn: Ăn nhanh, ăn đến đâu hết đấy.* Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội nước/uống như rồng leo, làm như mèo mửa: 1. Ăn nhiều, ăn tham mà làm ít, cẩu thả; 2. Ăn thật làm chơi.* Cá [chép] hóa rồng: 1. Học trò đi thi được đỗ đạt vinh hiển; 2. Người được thỏa chí, toại nguyện, thành đạt.* Cá gặp nước, rồng gặp mây: 1. Gặp môi trường thuận lợi, tương hợp, may mắn; 2. Cảnh sum vầy, hội ngộ.* Chạm rồng trổ phượng: 1. Trang trí lộng lẫy, tinh xảo, cầu kỳ; 2. Sự tô điểm rối rắm, rườm rà.* Con Rồng cháu Tiên: Dòng dõi đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.* Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng, chiếu hoa nệm gấm không chồng cũng hư: Một quan niệm đề cao hạnh phúc gia đình.* Dựa mạn thuyền rồng: Được vua chọn làm cung phi, làm vợ hoặc lấy được người giàu sang.* Đầu rồng đuôi tôm/rắn: 1. Việc khi đầu thì hưng thịnh, sau thì suy yếu; 2. Chuyện lúc khởi đầu có vẻ to tát, đẹp đẽ nhưng kết thúc lại chẳng ra gì; 3. Sự cọc cạch, không tương xứng giữa những bộ phận có phẩm chất quá khác biệt trong cùng một chỉnh thể.* Đẹp duyên cưỡi rồng: Lấy được người chồng lý tưởng.* Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay chết ngõng: Một quan niệm xưa, đề cao vai trò của người đàn ông, khẳng định phụ nữ cần thiết phải lập gia đình.

* Họa long điểm tinh (Vẽ rồng điểm mắt): Hành động đúng hướng, nắm bắt được trọng tâm của sự vật, sự việc.* Học chẳng biết chữ cu chữ cò, nói những chữ như rồng như rắn: Nói phét, nói suông, dốt hay nói chữ.* Hội long vân (Hội rồng mây): Cuộc gặp gỡ tốt lành, thời cơ thuận lợi.* Long bàn hổ cứ (Rồng cuộn hổ ngồi): Thế đất hiểm yếu, linh thiêng.* Long ly quy phụng (Rồng lân rùa phượng): Bốn con vật quý và thiêng theo quan niệm tín ngưỡng.* Lưỡng long chầu nguyệt: 1. Hình hai con rồng chầu chụm vào một mặt trăng thường thấy ở nơi thờ tự; 2. Một người tài giỏi lại có được hai người hỗ trợ, phò tá nhiệt tình, tương xứng và trung thành.* Mả táng hàm rồng: Gặp may mắn, tự nhiên ngày càng phát đạt thịnh vượng, [tưởng như] do mồ mả tổ tiên được chôn vào chỗ đất đẹp.* May hóa long, không may xong máu: Gặp may thì vinh hoa phú quý, không may thì chết.* Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng: Bản chất đã xấu thì khó thể trở thành người tốt, kẻ thuộc tầng lớp dưới khó thể lên địa vị cao.* Nem rồng chả phượng: Món ăn ngon, cầu kỳ và sang trọng.* Như rồng gặp mây: Gặp người, gặp hoàn cảnh tương hợp, thỏa lòng mong mỏi khát khao.* Nói như rồng cuốn: Nói những lời hay ý đẹp nhưng nói suông, chẳng bao giờ thực hiện điều gì mình đã nói, đã hứa.* Nói như rồng leo: Nói năng khôn khéo, mạch bạo.* Rồng bay phượng múa: Hình dáng, đường nét tươi đẹp, uyển chuyển, phóng khoáng.* Rồng đen lấy nước thì nắng, rồng trắng lấy nước thì mưa: Một cách dự báo và lý giải trạng thái thời tiết qua hiện tượng thiên nhiên – mây (rồng lấy nước ở đây tức là đám mây hình cột từ phía biển vươn lên trời).* Rồng đến nhà tôm: Người cao sang đến thăm kẻ thấp hèn (thường thấy trong lời ngoại giao, nói nhún của chủ nhà với khách).* Rồng lội ao tù: Người anh hùng sa cơ thất thế, bị kìm hãm, tù túng, không có điều kiện thi thố tài năng.* Rồng mây gặp hội: Cơ hội may mắn cho sự gặp gỡ và hòa nhập.* Rồng nằm bể cạn phơi râu: Trạng thái thờ ơ vì bất lực của người vốn tài giỏi nhưng bị đặt trong môi trường khó hoạt động, khó phát triển được.* Rồng thiêng uốn khúc: Người anh hùng, tài giỏi nhưng gặp vận xấu, phải sống nép mình, ẩn dật chờ thời cơ.

* Rồng tranh hổ chọi: Hai đối thủ hùng mạnh giao đấu.* Rồng vàng tắm nước ao tù: Người tài giỏi ở trong hoàn cảnh bó buộc, bất lợi hoặc phải chấp nhận chung sống với kẻ kém cỏi.* Thêu rồng vẽ phượng: Bày vẽ, làm đẹp thêm.* Trai ơn vua – cưỡi thuyền rồng, gái ơn chồng – bồng con thơ: Một quan niệm xưa, cho rằng nghĩa vụ chính của người đàn ông là phụng sự nhà cầm quyền, còn của người đàn bà là chăm lo gia đình và con cái.* Trứng rồng lại nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu: Tính tất yếu của sự bảo toàn, di truyền những giá trị và bản chất nòi giống.* Vẽ rồng nên/ra giun: Có mục đích hay, tham vọng lớn nhưng do bất tài nên chỉ tạo ra sản phẩm xấu, dở.* Vẽ rồng vẽ rắn: Bày vẽ lôi thôi, luộm thuộm, rườm rà.

Ca Dao Tục Ngữ Về Biển

Sông sâu mà biển cũng sâu Muốn ăn cá lớn, rong câu cho dài

Dốc lòng trồng cúc bẻ bông Ngó ra ngoài biển thấy ông đưa đò Anh ở làm sao cho biết đói biết no Biết ra khơi về lộng đây em lo kết nguyền

Trời sinh có biển có nguồn Có ta, có bạn, còn buồn nỗi chi?

Tháng chín mưa giông thuyền mong ghé bến Từ nơi bãi biển qua đến buổi chợ chiều Nuôi con chồng vợ hẩm hiu Nhà tranh một mái tiêu điều nắng mưa

Động bể đông bắc nồi rang thóc Động bể bắc đổ thóc ra phơi

Sự đời nghĩ cũng nực cười Một con cá lội mấy người thả câu Anh về xẻ gỗ bắc cầu Non cao anh vượt biển sâu anh dò Bây giờ sao chẳng bén cho Xa xôi cách mấy lần đò cũng đi

Trời cao hơn trán Trăng sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển Biển rộng hơn sông Anh đừng thương trước uổng công Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy thương

Ai về em gởi bức thơ Hỏi người bạn cũ bây giờ nơi nao Non kia ai đắp mà cao Sông kia, biển nọ ai đào mà sâu

Non cao, biển cả Con chim tra trả tìm mồi Khi mô vật đổi sao dời Đất Quảng Nam hết nước mới hết người tài hoa

Bãi biển Nha Trang mịn màng, trắng trẻo Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh Đêm đêm thơ thẩn một mình Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây?

Ngó lên trên rừng thấy cặp cu đang đá Ngó về dưới biển thấy cặp cá đang đua Biểu anh về lập miếu thờ vua Lập lăng thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Ngó lên rừng thấy cặp cua đang đá Ngó xuống biển thấy cặp cá đang đua Biểu anh về lập miếu thờ vua Lập lăng thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Ngó lên rừng thấy cặp cu đương đá, Ngó về Rạch Giá thấy cặp cá đương đua. Anh về lập miếu thờ vua, Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Ngó lên trời thấy mây giăng tứ diện, Ngó xuống biển thấy chim liệng cá đua. Anh về lập miễu thờ vua, Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Biển cạn, sông cạn, lòng qua không cạn Núi lở non mòn, ngỡi bạn không quên Ðường còn đi xuống đi lên, Tình qua nghĩa bậu quyết nên vợ chồng.

Sông cạn, biển cạn lòng ta không cạn Núi lở non mòn, nghĩa bạn không quên Đường còn đi xuống đi lên Ơn bạn bằng biển, ta đền bằng non Đường mòn duyên nợ không mòn Chết thì mới hết, sống còn gặp nhau Lời nguyền trước cũng như sau Em không phụ khó, ham giàu ở đâu

Sông sâu còn có kẻ dò Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng

Lụa tốt xem biên Người hiền xem tướng

Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa Em thương anh không dám nói ra Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời Anh với em cũng muốn kết đôi Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan.

Đố ai tát bể Đông Khê Tát sông Bồ Đề, nhổ mạ cấy chiêm

Bạn đang đọc nội dung bài viết Tục Ngữ Ca Dao Về Ngày Tết Nguyên Đán trên website Altimofoundation.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!