Top 13 # Xem Nhiều Nhất Tình Yêu Trong Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Altimofoundation.com

Ca Dao &Amp; Tục Ngữ Việt Nam

10:36:14 AM, Sep 07, 2020 * Số lần xem: 854101 * Cập nhật

* đăng lúc 11:22:41 AM, Jan 26, 2009 Ca Dao & Tục Ngữ Việt Nam Ca dao là gì?

Trước hết là Ca dao, là những câu thơ ca dân gian Việt Nam. Được truyền miệng dưới dạng những câu hát không thể một điệu nhất định. Và thông thường được phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ và dễ thuộc.

Và đặc biệt hơn đó chính là ca dao đã để lại dấu vết rõ rệt nhất trong ngôn ngữ văn học. Trong đó phần lớn nội dung ca dao thể hiện tình yêu nam nữ. Ngoài ra còn có các nội dung khác như: quan hệ gia đình, các mối quan hệ phức tạp trong xã hội. Và tóm lại ca dao được hiểu ý nghĩa ngắn gọn là những câu thơ dân gian được truyền miệng từ ông cha ta để lại.

Tục ngữ là gì?

Khác với ca dao, thì tục ngữ lại thể hiện những câu nói đúc kết kinh nghiệm của dân gian. Về mọi mặt trong cuộc sống như: tự nhiên, lao động sản xuất và xã hội, được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ, lời ăn tiếng nói và khuyên răn…

Với ý nghĩa ngắn gọn dễ hiểu, dễ nhớ, có nhịp điệu, có hình ảnh thường gieo vần lưng. Và đây cũng là một thể loại văn học dân gian Việt Nam. Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn của con người. Trong đó gữa hình thức và nội dung, tục ngữ có một sự gắn bó chặt chẽ. Thông thường trong một câu tục ngữ có 2 nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng.

Khác với ca dao, tục ngữ thường có vần, gồm 2 loại chính là: vần liền và vần cách.

Ca Dao Tục Ngữ Phần II từ H tới L Ca Dao Tục Ngữ Phần III từ M tới Y :: ::

Xin bấm vào các links sau đây để đọc tiếp :

1. Ai ai cũng tưởng bậu hiềnA

Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai

2. Ai đem con sáo sang song Để cho con sáo sổ lồng bay cao

3. Ai đi bờ đắp một mình Phất phơ chiếc áo giống hình phu quân

4. Ai đi đâu đấy hỡi ai Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm Ai đi muôn dặm non song Để ai chứa chất sầu đong vời đầy

5. Ai đi sục sịch ngoài hàng dưa Phải chăng chú thợ mộc với cái cưa cái bào Ai đi sục sịch ngoài hàng rào Phải chăng chú thợ mộc với cái bào cái cưa

6. Ai kêu là rạch, em gọi là song Phù sa theo nước chảy mênh mông Sông ơi, thấm mát đời con gái Chẳng muốn lìa sông, chẳng muốn lấy chồng

7. Ai làm cho bướm lìa hoa Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng

8. Ai làm Nam Bắc phân kỳ Cho hai giòng lệ đầm đìa nhớ thương

9. Ai mà nói dối cùng ai Thì trời giáng hạ cây khoai giữa đồng Ai mà nói dối cùng chồng Thì trời giáng hạ cây hồng bờ ao

10. Ai nhứt thì tôi đứng nhì Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba

11. Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần

12. Ai ơi chơi lấy kẻo già Măng mọc có lứa người ta có thì Chơi xuân kẻo hết xuân đi Cái già sòng sọc nó thì theo sau Phần I từ A tới G

100. Áo anh đứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu

B

Mưa rầu, nắng lửa, người ta lừ đừBuồn về một nỗi tháng tưCon mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ănBuồn về một nỗi tháng nămChửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêuLựu xa đào, lựu xéo đào xiênVàng cầm trên tay rớt xuống không phiềnChỉ phiền một nỗi nợ với duyên không trònChờ con bạn ngọc thở than đôi lờianh hai vật đổi sao dờiTính sao nàng tính trọn đời thủy chungCanh ba cờ phất trống rungMặc ai ai thẳng ai dùn mặc aiCanh tư hạc đậu cành maiSương sa lác đác khói bay mịt mờCanh chầy tơ tưởng tưởng tơChiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu khôngAi làm lỡ chuyến đò ngangCho loan với phượng đôi hàng biệt ly

C

78. Bước vô trường án, vỗ ván cái rầm Bủa xua ông Tham biện, bạc tiền ông để đâu

80. Bực mình chẳng muốn nói ra Muốn đi ăn giỗ chẳng ma nào mời

79. Bước xuống ruộng sâu, em mảng sầu tấc dạ

75. Bươm bướm mà đậu cành bong Đã dê con chị, lại bồng con em

76. Bước lên xe kiếng đi viếng mả chồng Mả chưa cỏ mọc trong lòng đậu thai

77. Bước sang canh một anh thắp ngọn đèn vàng

73. Buổi chợ đông con cá đồng anh chê lạt Buổi chợ tan rồi con tép bạc anh cũng khen ngon

74. Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo Tay em ôm bó mạ, luỵ ứa hai hàng

C

Đi buôn cau héo có buồn hay không

43. Chén tình là chén say sưa Nón tình anh đội nắng mưa trên đầu

VẦN D VẦN Đ

Đánh bạc quen tay Ngủ ngày quen mắt Ăn vặt quen mồm

Đánh chết, mà nết không chừa Đến mai ăn chợ, bánh dừa lại ăn

Đàn bà nói có là không Nói yêu là ghét, nói buồn là vui

Đàn bà tốt tóc thì sang Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu

Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi

Đàn kêu tích tịch tình tang Ai đem công chúa lên thang mà về

Đàn ông đi biển có đôi Đàn bà đi biển mồ côi một mình

Đàn ông không râu vô nghì Đàn bà không vú lấy gì nuôi con

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ

Đèn cầu tàu ngọn lu ngọn tỏ Anh trông không rõ, anh ngỡ đèn màu Rút gươm đâm họng máu trào Để em ở lại, em kiếm thằng nào hơn anh

Đèn nhà lầu hết dầu đèn tắt Lửa nhà máy hết cháy thành than Nhang chùa Ông hết mạt nhang tàn Kể từ khi em biết được chàng Đêm về em lăn lộn như con chim phượng hoàng bị tên

Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc Xứ nào dốc bằng xứ Nam Vang Một tiếng anh than ba bốn đôi vàng em không tiếc Anh lấy đặng em rồi anh trốn biệt lánh thân

Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần THương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run

Đèn treo ngang quán Tỏ rạng bờ kinh Em có thương anh thì ăn nói cho thiệt tình Đừng để cho anh lên xuống một mình bơ vơ

Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn Đồng hồ điểm nhặt nhớ chàng không quên

Đêm khuya ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn trông sao sao mờ Buồn trông con nhện giăng tơ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai

Đêm khuya thắp chút dầu dư Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình

Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?

Đêm khuya trăng dọi lầu son Vào ra thương bạn, héo hon ruột vàng Bển qua đây đàng đã xa đàng Dầu tui có lâm nguy thất thế Hỏi con bạn vàng nó cứu không? Chiều rồi kẻ Bắc, người Đông Trách lòng người nghĩa, nói không thiệt lời

Đêm nằm tàu chuối có đôi Hơn nằm chiếu tốt lẻ loi một mình

Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài Bây giờ chàng đã nghe ai Aó ngắn chẳng đắp, aó dài không chung Bây giờ sự đã nhạt nhùn Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua Cá lên mặt nước, cá khô Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm

Đêm qua nguyệt lặn về Tây Sự tình kẻ ấy, người đây còn dài Trúc với mai, mai về trúc nhớ Trúc trở về, mai nhớ trúc không Bây giờ kẻ Bắc, người Đông Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư

Đêm thanh cảnh vắng Thức trắng năm canh Một duyên, hai nợ, ba tình Đường kia,nỗi nọ, phận mình ra sao

Đến đây đất nước lạ lùng Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo

Đến ta mới biết của ta Trăm nghìn năm trước biết là của ai

Đề huề chồng vợ Như bí rợ nấu kiểm với khoai lang Như tép rang ăn cặp với canh khoai mỡ

Đi chùa lạy Phật cầu chồng Hộ pháp liền bảo đờn ông hết rồi

Đi đâu cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam

Đi đâu mà vội mà vàng Mà vấp phải đá mà quàng phải dây Thủng thỉnh như chúng anh đây Thì đá nào vấp, thì dây nào quàng

Đi cho biết đó biết đây Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn

Đi qua nhà nhỏ Thấy đôi liễn đỏ có bốn chữ vàng Thạnh suy anh chưa biết chớ thấy nàng anh vội thương

Đó đây trước lạ sau quen Chẳng gần, qua lại đôi phen cũng gần

Đói lòng ăn đọt chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

Đói lòng ăn nắm lá sung Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng

Đói lòng ăn nửa trái sim Uống lưng bát nước đi tìm người thương

Đói lòng nuốt trái khổ qua Nuốt vô sợ đắng, nhả ra con bạn cười

Đôi ta chẳng được sum vầy Khác nào cánh nhạn lạc bầy kêu sương Vì sương nên núi bạc đầu Cành lay bởi gió hoa sầu vì mưa

Đôi ta đã trót lời thề Con dao lá trúc đã kề tóc mai Dặn rằng: Ai chớ quên ai!

Đôi ta như loan với phượng Nỡ lòng nào để phượng lià cây Muốn cho có đó, có đây Ai làm nên nỗi nước này chàng ôi Thà rằng chẳng biết thì thôi Biết rồi gối chiếc lẻ loi thêm phiền

Đôi ta như thể con tằm Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong Đôi ta như thể con ong Con quấn con quít, con trong con ngoài Đôi ta như thể con bài Chồng đánh vợ kết chẳng sai con nào

Đố ai biết luá mấy cây Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng Đố ai quét sạch lá rừng Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây Rung cây, rung cỗi, rung cành Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng

Đố ai lặn xuống vực sâu Ru con không hát, em chừa nguyệt hoa

Đố anh con rít mấy chưn Cầu Ô mấy nhịp, chợ Đinh mấy người Mấy người bán áo con trai Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim

Đốt than nướng cá cho vàng Lấy tiềng mua rượu cho chàng uống chơi

Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm Muốn ăn bôn súng mắm kho Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm

Đồng tiền Vạn lịch Thích bốn chữ vàng Anh tiếc công anh gắn bó với cô nàng bấy lâu Bây giờ cô lấy chồng đâủ Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng

Đổ lửa than nên vàng lộn trấu Anh mảng thương thầm chưa thấu dạ em

Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ, đi bán giỏ nuôi mẹ Anh gặp em đây không cửa không nhà Muốn vô gá nghĩa, biết là đặng chăng?

Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Lúa rụng đầy đồng, gà chẳng cần ăn

Đờn cò lên trục kêu vang Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương Chiều nay qua phản bạn hồi hương Nghe bậu ở lại vầy vươn nơi nào Ghe tui tới chỗ cắm sào Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông

Đu đủ tiá, bạc hà cũng tiá Ngọn lang dâm, ngọn mía cũng dâm Anh thấy em tốt mã anh lầm Bây giờ anh biết rõ, vàng cầm anh cũng buông

Đưa nhau đổ chén rượu hồng Mai sau em có theo chồng đất xa Qua đò gõ nhịp chèo ca Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say

Đường trơn trợt gượng đi kẻo té Áo còn nguyên ai nỡ xé vá quàng Hồi sớm mai, gặp em sao anh không hỏi Hay dạ của chàng nay đã hết thương?

Đứt tay một chút còn đau Huống chi nhân nghĩa, lià sao cho đành

Đ Đất lành chim đậu.

E

VẦN E

Em có chồng sao em không nói? Để anh theo anh chọc em hoài Chắc có ngày anh sẽ bị ăn dao phay!

Em đeo chiếc kim hườn Em còn chờn vờn chiếc kim xuyến Hườn xuyến vuột tay rồi, buồn nghiến, ai thương!

Em liều một cái bánh bò Còn nào chót chét, cặp giò em chặt hai

Em liều một chén dầu chanh Con nào hỗn dữ vuốt nanh em bẻ liền

Em liều một trái sầu giêng Con nào độc hiểm, em nghiền ra tro

Em nghĩ thân em, như kiếng lấm lem cát bụi Ai đó lau chùi, biết tới buổi nào xong?

Em nhớ thương ai mà mặt mày ngơ ngác Nhớ tên hốt rác hay thương thằng vét đường mương?

Em ơi, anh bảo em này Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi

Em ơi, em có thương anh Em ra canh lính cho anh leo tường!

Em ơi em ở lại nhà Vườn dâu em hái mẹ già em thương Mẹ già một nắng hai sương Chị đi một bước trăm đường xót xa Cậy em em ở lại nhà

Em thấy anh em cũng muốn chào Sợ anh chồng cũ nó đứng bờ rào nó trông

Em chấy anh em cũng muốn chào Sợ rằng chị ả vắt dao trong mình Dao trong mình, gươm anh cặp nách Thuận nhơn tình khoét vách sang chơi

Em thương nhớ ai ngơ ngẩn bên đầu cầu Lược thưa biếng chải, gương tàu biếng soi Cái sập đá bỏ vắng em không ngồi Vườn hoa hoang lạnh mặc người vào ra

Em về hỏi mẹ cùng cha Có cho em lấy chồng xa hay đừng

Én bay thấp, mưa ngập bờ ao Én bay cao, mưa rào lại tạnh

Em nghe tiếng hát đâu xa

Còn trẻ hay già mà còn tinh vang.

Ê

Êm như ru

Ếch ngồi đáy giếng

VẦN G

Gan teo mấy đoạn, ruột thắt mấy từng Mình bảy buôi lỗ miệng đặng cầm chừng xa tui

Gái Tầm Vu đồng xu ba đứa Con trai Thủ Thừa cỡi ngựa xuống mua

Gái Thới Bình lòng ngay dạ thẳng Trai bạc tình một cẳng về quê

Gái lấy trai đứng là gái dại Trai lấy rồi trai lại bán rao Gái đâu có thứ hỗn hào Trai chưa làm rể, gái vào làm dâu

Gà đẻ, gà cục tác

Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân

Gạo Ba Thắt trắng như bông bưởi Nước phông-tên tiền rưỡi một đôi Saigon vui lắm em ơi Lấy chồng về đó một đời sướng thân

Gạo chợ, nước sông, củi đồng, nồi đất

Gạo ngon nấu cháo chưa nhừ Mặt chị có thẹo ảnh chừa đôi bông

Gẫm xem sự thế nực cười Một con cá lội mấy người buông câu

Gần mực thì đen gần đèn thì sáng

Gập ghềnh nước chảy qua đèo Bà già tập tễnh mua heo cưới chồng

Ghe anh đỏ mũi xanh lườn Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em

Ghe anh mỏng ván, bóng láng nhẹ chèo Xin anh bớt mái, nương lèo đợi em

Ghe em rẽ vô ngọn, anh chẳng đón chẳng chờ Ghe anh tách bến tách bờ, em buồn cho trăng mờ sao lặn Mình lấy nhau chẳng đặng bởi bà mai lưỡi vắn ít lời Mật đường dù chẳng đi đôi Chút hương rớt lại, một đời chưa quên

Ghe lên ghe xuống dầm dề Sao anh không gởi thơ về thăm em?

Ghét con xẩm lai mê trai, mi lai nhãn khứ Ôm bụng trống chầu, bỏ xứ ra đi

Già thì đặc bí bì bì Con gái đương thì rỗng toác toàng toang Ngoài xanh trong trắng như ngà Đàn ông cũng chuộng, đàn bà cũng yêu (Đố là gì? – cau dầy)

Giàu cha giàu mẹ thì ham Giàu cô giàu bác ai làm nấy ăn

Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa Sang đâu đến kẻ say sưa rượu chè

Giàu từ trong trứng giàu ra

Giàu út ăn, khó út chịu

Giả đò mua khế bán chanh Giả đi đòi nợ thăm anh kẻo buồn

Giặc Tây đánh tới Cần Giờ Bậu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công

Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh

Giấy hồng đơn bán mấy Cho anh mua lấy một tờ Viết thơ quốc ngữ Dán trên trái bưởi Thả xuống giang hà Bớ cô gánh nước bên bờ Xuống sông vớt bưởi để mà xem thơ

Giận chồng xách gói ra đi Chồng theo năn nỉ, khoái tù ti trở về

Gieo gió gặp bão

**************************************

Toàn bộ từ vần A đến Y

-B-

-C-

Ca Li đi dễ khó về

Câu nguyên gốc là..nói về những người đi trồng cao su

Cao su đi dễ khó về Khi đi trai tráng, khi về bủng beo ================================================== ======= Có công mài sắt, có ngày nên kim ================================================== ======== Chân cứng đá mềm ================================================== ======== Có chí thì nên ================================================== ======== Cô kia bới tóc đuôi gà Nắm đuôi kéo lại hỏi nhà ở đâu ? Nhà tôi ở trước đám dâu Ở sau đám cải đầu cầu ngó qua

Cái câu này còn có khác hơn một tí đó là..

Đ-

Còn trẻ hay già mà còn tinh vang.

Ếch ngồi đáy giếng

================================================== ========

-G-

-H-

-I-

================================================== ========

-K-

-L-

-M-

-N-

Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ ================================================== ======== Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm ================================================== ======== Nhất quỷ nhì ma Thứ ba học trò …. ) ================================================== ======== Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng ================================================== ======== No bụng đói con mắt ================================================== ========

-O-

Ở đâu cũng có anh hùng Ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên ================================================== ======== Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài ================================================== ======== Ớt nào là ớt chẳng cay, Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng. Vôi nào là vôi chẳng nồng Gái nào là gái có chồng chẳng ghen ! ================================================== ======== Ở hiền gặp lành ================================================== ========

-Q-

Quả cau nho nhỏ Cái vỏ vân vân Nay anh học gần Mai anh học xa Tiền, gạo là của mẹ cha Bút nghiên, kinh sách thì là của anh

Lấy chàng từ thuở mười ba Đến năm mười tám thiếp đà năm con Ra đường thiếp hãy còn son Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng

================================================== ========

-R-

Râu tôm nấu với ruột bầu Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon ================================================== ========

-S-

Sông sâu còn có kẻ dò Nào ai lấy thước mà đo lòng người ================================================== ======== Sá gì một nải chuối xanh Năm bảy người giành cho mủ dính tay ================================================== ========

-T-

-U-

================================================== ========

-V-

Vì sông nên phải lụy thuyền Chứ như đường liền ai phải lụy ai ================================================== ======== Vải thưa che mắt thánh ================================================== ========

-X-

========

-Y-

Yêu nhau cởi áo cho nhau Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay

========

Yêu nhau thì ném miếng trầu Ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra Yêu nhau cau bổ làm ba Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười

☆ ☆

Xem Thêm Cập nhật 2020:

Mèo khen mèo dài đuôi.

N Năm nắng mười mưa

Người Già Trong Thành Ngữ Tục Ngữ Ca Dao Việt Nam

(Ngày ngày viết chữ) Bài viết này nói về những quan niệm của người Việt đối với người già, tuổi già thể hiện qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao.

Già là túi khôn, là vốn quý

Người già có nhiều kinh nghiệm, họ trải qua nhiều nỗi thăng trầm, nhìn thấu mọi lẽ thường lẫn bất thường của xã hội:

Bà già đeo bị hạt tiêu, Sống bao nhiêu tuổi nhiều điều đắng cay.

Cho nên, từ lâu, người Việt đã xem người già là túi khôn, là vốn quý. Thành ngữ “Kẻ cắp gặp bà già” chính là để nói sự lõi đời của người cao tuổi. Người Việt thường cảm thán (xen chút ngưỡng mộ) rằng “Gừng càng già càng cay” và không quên dặn “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”.

Nói về mối quan hệ giữa người trẻ với người già, người Việt còn có câu “Khôn đâu tới trẻ, khỏe đâu tới già”, để thấy rằng trẻ và già nên nương tựa nhau, bổ sung cho nhau. Một gia đình có già có trẻ, người trẻ được bảo ban, người già được chăm sóc, đó chính là phúc. Cho nên người Việt xưa rất thích những gia đình tam đại đồng đường, tứ đại đồng đường. Sự tháo vát của người già còn thể hiện ở câu “Một mẹ già bằng ba con ở”.

Lại nói, dù dân gian có nhiều câu nói thể hiện chuyện cha mẹ già khó khăn, làm duyên con bẽ bàng, nhưng đồng thời cũng có những câu như:

Canh suông  khéo nấu thì ngon, Mẹ già khéo nói  thì con đắt chồng.

để biểu đạt vai trò quan trọng của bậc sinh thành khi vun vén duyên con.

Hiếu đễ với người già

Nhìn chung, người Việt kính trọng người già. Câu tục ngữ “Yêu trẻ trẻ đến nhà, kính già già để tuổi cho” hầu như không người Việt nào không biết. Trong gia đình, chuyện hiếu kính với cha mẹ cực kỳ quan trọng. Và những câu ca dao nhắc nhau hiếu thuận với cha mẹ già thực sự rất nhiều.

Mẹ già hai đứa nuôi chung, Đứa lo cơm cháo, đứa giùm thuốc thang.

Mẹ già đầu bạc như tơ, Lưng đau con đỡ, mắt lờ con nuôi.

Đèo mô cao bằng đèo Cây Cốc? Dốc mô ngược bằng dốc Mỹ Cang? Một tiếng anh than hai hàng lệ nhỏ, Em có mẹ già biết bỏ cho ai.

Mẹ già như chuối ba hương, Như xôi nếp mật, như đường mía lau. Đường mía lau càng lâu càng ngát, Xôi nếp mật ngào ngạt hương say. Ba hương lây lất tháng ngày, Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi. Mẹ già như áng mây trôi, Như sương trên cỏ, như lời hát ru. Lời hát ru vi vu trong gió, Sương trên cỏ khó vỡ dễ tan. Mây trôi lãng đãng trên ngàn, Gió đưa tan, hợp, hợp, tan, nao lòng.

Trời mưa cho ướt lá dừa, Cho tươi luống cải cho vừa lòng em. Cho em hái đọt rau dền, Nấu tô canh ngọt dâng lên mẹ già.

Con cá đối  nằm trên cối đá, Chim đa đa  đậu nhánh đa đa, Chồng gần không lấy, bậu  lấy chồng xa. Mai sau cha yếu mẹ già, Chén cơm đôi đũa, bộ kỷ trà  ai dưng ?

Sợ tuổi già

Mặc dù xem người già là túi khôn, là đáng kính trọng, nhưng người Việt (và lẽ nhiều dân tộc khác trên thế giới) cũng rất sợ tuổi già. Bởi “Trẻ khôn ra, già lú lại”, ai mong già làm gì.

Lý do một cô gái thôi chờ đợi một chàng trai thường là:

Một năm một tuổi một già, Ba năm một tuổi chi mà đợi anh.

“Cái tuổi nó đuổi xuân đi”, nên các cô gái thường mang tâm lý:

Ai ơi, trẻ mãi ru  mà, Càng đo đắn  mãi càng già mất duyên.

Mướp  già thì mướp có xơ, Gái già thì gái nằm trơ một mình.

Cau già lỡ lứa bán trăm, Chị nọ lỡ lứa biết nằm cùng ai?

Thành ngữ “Già kén kẹn hom” cũng dùng để nói chớ có kén chọn mà lỡ duyên thế này. Kén của con tằm nếu để quá lâu sẽ dính chặt vào hom (những búi rơm, rạ hoặc cây rang, cây bổi…), khó gỡ ra. Ở đây chơi chữ  “kén” trong ‘kén tằm’ đồng âm với “kén’ trong “kén chọn”. Ý của thành ngữ này là nếu quá kén chọn sẽ dễ dẫn đến quá lứa, lỡ thì.

Trường hợp lứa đã quá, thì đã lỡ, có cô than:

Cau già dao bén thì ngon, Người già trang điểm phấn son cũng già.

Thế nhưng cũng có cô rất lạc quan:

Cau già khéo bổ thì non, Nạ dòng  trang điểm lại giòn  hơn xưa.

Gà già khéo ướp lại tơ, Nạ dòng trang điểm, gái tơ mất chồng.

Còn như khi không thể để bản thân lỡ thì mà lo bến đỗ trước, và rồi phải từ chối chàng trai từng ước hẹn, các cô cũng rằng:

Anh về kiếm vợ kẻo già, Kiếm con kẻo muộn, em đà  có đôi.

Trong cuộc sống, người ta thường dặn nhau lúc còn trẻ khỏe phải biệt lo liệu, đừng để đến già kẻo mà:

Mỗi năm, mỗi tuổi, mỗi già, Chẳng lo liệu trước ắt là lụy  sau.

Tre già nhiều người chuộng, Người già ai chuộng làm chi.

Thế nhưng, cũng vì sợ tuổi già đến, chưa kịp chơi cho thỏa đã không còn sức, nên mới có câu:

Ai ơi chơi lấy kẻo già, Măng  mọc có lứa người ta có thì. Chơi xuân kẻo hết xuân đi, Cái già xồng xộc nó thì theo sau.

Và tâm lý muốn lớn nhanh để chơi ai cũng có, nhưng lại sợ:

Muốn cho mau lớn mà chơi, Mới lớn vừa rồi, già lại theo sau.

Duyên nợ với người già

Mặc dù người Việt có câu:

Chồng già vợ trẻ là tiên, Vợ già chồng trẻ là duyên ba đời.

nhưng nhìn chung người Việt thường muốn sánh duyên cùng người có tuổi tác tương xứng.

Ông già tôi chẳng lấy ông đâu, Ông đừng cạo mặt nhổ râu tốn tiền.

Sở dĩ không muốn lấy chồng già là vì:

Con gái lấy phải chồng già, Cầm bằng con lợn cọp tha vào rừng.

rồi bị xóm giềng cười nhạo:

Nhà bà có ngọn mía mưng, Có cô gái út mà ưng ông già.

Chuyện cười nhạo đôi khi thái quá, khiến các cô phải ném hết thẹn thùng mà phản bác:

Tiếng đồn em lấy chồng già, Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng ? – Tre già còn dẻo hơn măng, Ớt cà ra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ.

Nhưng không muốn lấy chồng già chủ yếu là do những chuyện trái khoáy khác:

Vô duyên lấy phải chồng già, Ra đường bạn hỏi rằng cha hay chồng? Nói ra đau đớn trong lòng, Chính thực là chồng có phải cha đâu. Ngày ngày vác cối giã trầu, Tay thời rót nước, tay hầu cái tăm. Đêm đêm đưa lão đi nằm, Thiếp đặt lão xuống, lão nằm trơ trơ. Hỡi ông lão ơi! Ông trở dậy cho thiếp tôi nhờ, Để thiếp tôi kiếm chút con thơ bế bồng. Nữa mai người có thiếp không, Xấu hổ với chúng bạn, cực lòng mẹ cha.

Gà tơ xào với mướp già, Vợ hai mươi mốt chồng đà sáu mươi. Ra đường, chị giễu  em cười, Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng. Đêm nằm tưởng cái gối bông, Giật mình gối phải râu chồng nằm bên. Sụt sùi tủi phận hờn duyên, Oán cha trách mẹ tham tiền bán con.

Ngược lại, các ông cũng không ham gì vợ già:

Vô duyên lấy phải vợ già, Ăn cơm phải đút, xin bà nuốt nhanh. Vô phúc lấy phải trẻ ranh, Vừa chơi, vừa phá tung hoành tứ tung.

Thế nhưng, nếu đã vào thế lấy vợ già, các ông cũng cố mà tìm ra điểm tốt:

Canh bầu  nấu với cá trê, Ăn vô cho mát mà mê vợ già.

Có phúc lấy được vợ già, Sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh. Vô phúc lấy phải trẻ ranh, Nó ăn nó bỏ tan tành nó đi.

hòng giữ cho gia đạo bình an. Đó có lẽ cũng là một biểu hiện của tinh thần luôn cố gắng lạc quan thường thấy ở người Việt.

Nếu các cô không ham chồng già thì ngược lại, các ông già cũng không ham gì vợ trẻ, bởi:

Người già mà lấy vợ tơ, Như liều thuốc độc để hờ bên thân.

Con gái mà lấy chồng già, Đêm nằm thỏ thẻ đẻ ra con chồn.

Thế nhưng, cũng có khi, ông già thương thật, nên khi bị người mình để bụng thương chê, các cụ liền nói đạo lý:

– Ông già tui chẳng ưa đâu, Hàm răng ông rụng, chòm râu ông dài. – Con tôm con tép còn râu, Huống chi  em bậu  câu mâu  sự đời. Thương nhau vừa dặm vừa dài, Cắn rứt chi đó mà đòi hàm răng?

Có khi, các cụ vội vã phân bua, thể hiện:

Già thì già tóc già râu, Đêm ba bảy vợ, già đâu có già!

Càng già càng dẻo càng dai, Càng gãy chân chõng , càng sai chân giường.

Cười nhạo người già

Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, có kính trọng, nể vì thì cũng có chế giễu, nhạo báng. Có khi người ta cất lời chê già khó tính:

Ai làm cho chuối không cành, Cho anh không vợ cắn quanh mẹ già. Mẹ già như mẹ người ta, Thì anh có vợ trong nhà đã lâu. Mẹ anh ác nghiệt cơ cầu, Cho nên anh chịu âu sầu đến nay.

Hoặc càm ràm mấy câu như “Già sinh tật, đất sinh cỏ’, hay “Trẻ đeo hoa, già đeo tật”. Cũng có khi dân gian lên tiếng đánh thẳng vào những thói hư tật xấu, thường là chê trách cái nết không chuyên chính:

Bà già đã tám mươi tư, Ngồi bên cửa sổ đưa thư kén chồng.

Bà già tuổi tám mươi hai, Ngồi trong quan tài hát ghẹo ông sư.

Bà già đi chợ Cầu Đông, Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng? Thầy bói gieo quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn!

Ấy vậy mà, đâu đó vẫn có thể bắt gặp những câu ca dao nửa chê trách, nửa cảm thông:

Già thì bế cháu ẵm  con, Già đâu lại muốn cau non trái mùa. – Già thì lễ Phật đi chùa, Cau non trái mùa ai cũng muốn ăn.

“Cau non trái mùa ai cũng muốn ăn” vừa là lời chống chế của người già, vừa là lời bênh vực của dân gian dành cho người già. Rằng thói đó âu cũng là lẽ thường.

Về cánh các ông già, các nết không đứng đắn cũng không thoát được con mắt tinh tường và cái miệng thẳng thừng của dân gian:

Ông già bạc phếu râu tôm Thấy dâu quét bếp còn lườm mắt dê

Ông già ông đội nón cời, Ông ve  con nít ông Trời đánh ông.

Điểm qua một vài thành ngữ, tục ngữ, ca dao như thế, mới thấy cái nhìn của dân gian đối với người già, tuổi già vô cùng đa diện, đặc sắc, có khen có chê, có nể có khinh. Điều đó không chỉ cho thấy thái độ của dân gian mà còn biểu hiện khả năng dùng từ, đặt câu biến hóa, lời lẽ khi khen, khi yêu thì chân thành, cảm động, khi chê, khi ghét thì chua chát, sâu cay.

Ca Dao Tục Ngữ Trong Ẩm Thực Việt Nam

Những câu ca dao tục ngữ của cha ông khi nói về văn hóa ăn uống Việt nam:

1. Địa phương nào, món ăn nấy .

* Chẳng ai nhớ cháo làng GhềNhớ cơm phố Mía, nhớ chùa Đông Viên.

* Dưa La, cà Láng , nem Báng, tương BầnNước mắm Van Vân, cá rô Đầm Sét.

* Yến xào Vĩnh SơnNam sâm Bố TrạchCua gạch Quảng KhêSò nghêu Quan HàRượu dâu Thuần Lý

* Nem cá Hoa VàngBánh tổ Hội AnKhoai lang Trà KiệuThơm rượu Tam kỳ

* Muốn ăn bánh ích lá gaiLấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.

* Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còngVề sông ăn cá ,về đồng ăn cua.

2. Tập quán lễ nghi qua mỗi món ăn

*Anh thương em chẳng nại sang giàuMứt hồng đôi lượng , trà Tàu đôi cân.

* mâm trầu hủ ruợu đàng hoàngCây mai đến nói, phụ mẫu nàng thì xong.

* Tay bưng quả nếp vô phòngđèn hương đôi ngọn , chữ bá tòng cầu hôn.

*Tiếng đồn con gái Phú YênCon trai Bình Thuận đi cưới một thiên cá mòi.

* Mẹ tôi tham thúng xôi dềnTham con lợn béo, tham tiền Cảnh HưngTôi đã bảo mẹ “đừng”.Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vàoBây giờ chồng thấp vợ caoNhư đôi đũa lệch so sao cho vừa.

3. Tình yêu quê hương xứ sở.

*Rủ nhau xuống bể mò cuaĐem về nấu quả mơ chua trên rừngAi ơi, chua ngọt đã từngNon xanh, nước biếc ta đừng quên nhau.

* Ta về ta lấy cần câuCâu con cá bống ,nấu canh tập tàng.

*Năm tiền một khúc cá buôiGiã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.

* Má ơi đừng đánh con đauĐể con bắt ốc hái rau má nhờMá ơi đừng đánh con hoàiĐể con bắt ốc hái xoài mà ăn.

*Đói lòng ăn đọt chà làĐể cơm nuôi mẹ , mẹ già yếu răng.

* Rượu nằm trong nhạo chờ nemAnh nằm phòng vắng chờ em một mình .

* Bữa ăn có cá cùng canhAnh chưa mát dạ bằng anh thấy nàng.

* Cầm tay em như ăn bì nem gỏi cuốnDựa lưng nàng như uống chén rượu ngon.

Về tầm quan trọng của ăn uống

* Trời đánh còn tránh bữa ăn * Có thực mới vực được đạo * Dân dĩ thực vi tiên (người dân lấy ăn làm đầu) * Ăn được ngủ được là tiên

Về cách ăn và thái độ trong ăn uống

* Ăn trông nồi, ngồi trông hướng * Miếng ăn là miếng nhục * Một miếng giữa đàng bằng một sàng xó bếp * Ăn cây nào rào cây nấy * Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Về đặc sản các vùng miền

* Ăn Bắc mặc Nam. (Bắc ở đây là miền Bắc, còn Nam là miền Nam Việt Nam). * Ăn Bắc mặc Kinh. (Bắc ở đây là miền Bắc, còn Kinh là xứ Huế). * Bánh cuốn Thanh Trì, bánh gì (giầy) Quán Gánh. * Bánh giầy làng Kẻ, bánh tẻ làng So * Bánh đúc làng Kẻ, bánh tẻ làng Diễn * Giò Chèm, nem Vẽ, chuối Xù. * Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần. Nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét * Ổi Định Công, hồng làng Quang, chè vối cầu Tiên, rượu hũ làng Ngâu, bánh đúc trâu làng Tó… * Kẹo mạch nha An Phú, kẻ Lủ thì bán bỏng rang, khoai lang Triều Khúc,… * Cháo Dương, tương Sủi v.v.

Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì Tương Bần, húng Láng có gì ngon hơn? Vải Quang, húng Láng ,ngổ Đầm Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây Thanh Trì có bánh cuốn ngon Có gò Ngũ nhạc có con sông Hồng

Bí quyết nấu nướng

Con gà cục tác lá chanh Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi Con chó khóc đứng khóc ngồi Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng Râu tôm nấu với ruột bầu Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon

Về các món ăn kỵ nhau

Trứng vịt, lẫn tỏi, than ôi?Ăn vào chắc chết, mười mươi rõ ràng!

Mật ong, sữa, sữa đậu nành?Ăn cùng tắc tử – phải đành xa nhau!

Gan lợn, giá, đậu nực cười?Xào chung, mất sạch bổ tươi ban đầu!

Thịt gà, kinh giới kỵ nhau?Ăn cùng một lúc, ngứa đầu phát điên!

Thịt dê, ngộ độc do đâu?Chỉ vì dưa hấu, xen vào bữa ăn!

Ba ba ăn với dền, samBụng đau quằn quại, khó toàn vẹn thân!

Động kinh, chứng bệnh rành rành?Là do thịt lợn, rang chung ấu Tầu!

Chuối hột ăn với mật, đường?Bụng phình, dạ trướng, dọc đường phân rơi!

Thịt gà, rau cải có câu?Âm dương, khí huyết thoát vào hư vô!

Trứng vịt, lẫn tỏi, than ôi?Ăn vào chắc chết, mười mươi rõ ràng!

Cải thìa, thịt chó xào vô?Ăn vào, đi tả, hôn mê khôn lường!

Sữa bò, cam, quýt, bưởi, chanh?Ăn cùng một lúc, liên thanh sấm rền!

Quả lê, thịt ngỗng thường thường?Ăn vào cơ thể đùng đùng sốt cao!

Đường đen pha sữa đậu nành?Đau bụng, tháo dạ, hoành hành suốt đêm!

Thịt rắn, kị củ cải xào?Ăn vào, sao thoát lưỡi đao tử thần!

Nôn mửa, bụng dạ không yên?Vì do hải sản ăn liền trái cây!

Cá chép, cam thảo, nhớ rằng?Ăn chung, trúng độc, không cần hỏi tra!

Nước chè, thịt chó no say?Thỉnh thoảng như thế, có ngày ung thư!

Chuối tiêu, môn, sọ phiền hà?Ruột đau quằn quại, như là dao đâm!

Khoai lang, hồng, mận ăn vô?Dạ dày viêm loét, tổn hư tá tràng!

Ai ơi, khi chưa dọn mâm?Nhắc nhau nấu nướng, sai lầm hiểm nguy!

Giàu Vitamin C chớ có tham (1)Nấu cùng ốc, hến, cua, tôm, nghêu, sò!

Ăn gì? ăn với cái gì?Là điều cần nhớ, nên ghi vào lòng!Chẳng may ăn phải, vài giờ?Chúng tạo chất độc bảng A chết người!Quý nhau mời tiệc lẽ thường!Thức ăn tương phản, trăm đường hại nhau!———————

Tục Ngữ Ca Dao Việt Nam Chọn Lọc

Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc nét văn hóa đặc sắc của dân tộc

Ca dao, tục ngữ là sự kết tinh, lắng đọng vốn sống và những kinh nghiệm quý báu trong dân gian. Đây là loại hình văn nghệ truyền miệng từ đời này qua đời khác. Trải qua bao biến thiên cuộc sống, trong thời đại ngày nay, ca dao, tục ngữ vẫn còn vẹn nguyên giá trị răn dạy con người về cách đối nhân xử thế trong cuộc sống.

Cuốn sách “Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc” là công trình sưu tầm, nghiên cứu công phu, khoa học, tập hợp khá nhiều tinh hoa của tục ngữ, ca dao trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam nhằm cung cấp một nguồn “sử liệu” về văn học dân gian cho độc giả.

Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc cuốn sách tập hợp những câu ca dao tục ngữ muôn đời của dân tộc ta được đúc kết lại.

Cuốn sách được chia thành nhiều chủ đề khác nhau. Qua từng chủ đề, tác giả đã chọn lọc những tác phẩm hay, những câu tục ngữ, ca dao tiêu biểu. Từ đó, giúp độc giả tiếp cận được tương đối đầy đủ, dễ dàng những vấn đề lý luận của văn học dân gian như: Thế nào là tục ngữ, ca dao về tình yêu đôi lứa, hôn nhân và tình cảm gia đình; tục ngữ, ca dao về lao động nghề nghiệp; tục ngữ ca dao ca ngợi Bác Hồ…. sách còn giúp cho mỗi người Việt Nam thêm yêu quý và gìn giữ “lời ăn tiếng nói” của ông cha mình.

Cuốn sách văn học- tiểu thuyết có các phần như:

Phần I. Tình cảm, tình yêu đôi lứa

Các phần tiếp theo là về các chủ đề rất đa dạng và thân thuộc với đời sống của nhiều người dân như:

-Hôn nhân và tình cảm gia đình

– Tục ngữ, ca dao về lao động nghề nghiệp

– Tục ngữ ca dao ca ngợi Bác Hồ…

Các chủ đề được sắp xếp liền mạch, mang theo nhiều nội dung sâu sắc với sự tập hợp công phu của tác giả, làm nên nét đặc sắc cho toàn bộ tác phẩm.

Nó không dừng lại ở những trang giấy thông thường mà đó là nguồn tư liệu quý giá giúp cho người đọc với nhiều đối tượng khác nhau có được cái nhìn sâu rộng hơn về loại hình văn hóa dân gian của Việt Nam bao đời nay.

Ca dao, tục ngữ có những lối giáo dục chân thực, hóm hỉnh tạo nên đời sống vật chất và tinh thần phong phú. Trong đời sống hàng ngày, câu ca dao, tục ngữ vẫn được ông bà, cha mẹ truyền tụng khuyên răn con cháu. Loại hình văn hóa truyền miệng này như một nguồn nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Đấy là một cuốn sách có giá trị về luân lý và đạo đức học, vì đấy là cái nền để rồi đến khi hấp thu được tư tưởng đạo đức mới của thời đại mới, mới có thể trở thành được những con người Việt Nam vừa dân tộc vừa hiện đại. Đó là một mẫu người Việt Nam đẹp nhất, những con Rồng cháu Tiên xuất hiện dưới thời đại Bác Hồ, sẽ là những người Việt Nam có tâm hồn đạo đức đẹp nhất từ xưa đến nay. Cái đẹp của người Việt Nam mới là sự hợp thành bởi hai sắc thái đạo đức Truyền thống và Hiện đại. Hai yếu tố ấy như là hai phần trong một cơ thể Người – Thiếu đi một phần sẽ trở nên “bất thành nhân dạng”, không thể nào trở thành được một Con người mới, của Thời đại mới.

Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc cần thiết và hữu ích, nhất là cho lớp người trẻ tuổi, những người sẽ quyết định vận mệnh tương lai của đất nước.