Ca Dao Tục Ngữ Phú Yên
--- Bài mới hơn ---
--- Bài cũ hơn ---
Tổng hợp danh sách các bài hay về chủ đề Ca Dao Tục Ngữ Về Phú Thọ xem nhiều nhất, được cập nhật nội dung mới nhất vào ngày 20/05/2022 trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong các bài viết này sẽ đáp ứng được nhu cầu mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật lại nội dung Ca Dao Tục Ngữ Về Phú Thọ nhằm giúp bạn nhận được thông tin mới nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến nay, chủ đề này đã thu hút được 10.989 lượt xem.
--- Bài mới hơn ---
--- Bài cũ hơn ---
--- Bài mới hơn ---
Quê Tuy Hòa có hòn Nhạn Tháp – Chốn Sông Cầu dừa mát bóng râm – Phú Yên lắm cảnh danh lam – Sơn Hòa có suối, Đồng Xuân có rừng – Tuy An nước lặng mây dừng – Đất rừng màu mỡ nên xuân xứ này. PHÚC TÂM ĐƯỜNG xin giới thiệu đến các bạn một tác phẩm của Thầy Nguyễn Đình Chúc đã dày công tìm hiểu và nghiên cứu địa danh vùng đất ” Xứ Nẫu” qua tục ngữ,ca dao
Phú An trên Hồng Đức bản đồ với ý nghĩa là giàu có yên vui. Đó là khát vọng của tiền nhân những ngày mở đất, bởi khi vượt Cù Mông biết bao gian khó núi cao, dốc ngược, hố sâu. Những địa danh buổi đầu như nói lên chặng đường hiểm nguy mà 400 năm sau đi lại cũng phải khó khăn. Những tên đèo: Chùm gởi, Dốc Quít, Dốc Găng … những Lỗ Râm ( thôn Lãnh Tú ngày nay), Đồng Cỏ ( Lãnh Cao) và Sân Cu ( thôn Lãnh Trường, Soi Nga ngày nay) là cả một vùng núi cao, rừng rậm, ở cực Bắc của tỉnh. Đây là vùng đất có lịch sử rất sớm vào khoảng cuối thế kỷ XV, nhưng là vùng đất hoang vu. Mãi đến thế kỷ XVII chủ sự Văn Phong dẹp yên các cuộc nổi loạn của người Chăm, lập thành phủ Phú Yên. Những địa danh Đất Đồn – nơi trại lính của Chúa Nguyễn và phường Bà Lãnh – người đàn bà không rõ tên họ đã chiêu tập lưu dân và trông coi binh lính ( lãnh binh), khai phá vùng núi rừng lập lên phường ấy. Xa hơn nữa về phia Nam vùng châu thổ sông Cái là cánh đồng ” Ông Tài”- người có công khai phá buổi đầu mà lưu dân ngày cũ thương nhớ đã đặt tên.
Vượt đèo Quán Cau và dốc Bà Ền vào khẩn hoang vùng Đà Diễn, nơi rừng hoang, đầm ao sình lội. Nhiều địa danh cho ta thấy hình ảnh thế đất buổi đầu như Bờ Đắp, Sơn Triều ở Hòa Kiến, Gành Đá, Gành Bà ở Hòa Thắng, Hòa Phong hoặc vùng rừng núi Hạnh Lâm, Nho Lâm, Đồng Lâm …bên tả ngạn sông Ba và Phú Lâm, Hoành Lâm ( Rừng Ngang), Uất Lâm, Thọ Lâm hay Đồng Lau, Đồng Cọ, Bàu Đá, Hóc Nhum bên hữu ngạn sông Đà Rằng, chứng tỏ biển và rừng chế ngự cả một vùng rộng lớn mà khi phục hóa có đến 2 vạn héc-ta.
Ông cha ta với những dụng cụ thô sơ buổi đầu đã biến vùng đất hoang vu thành đất ruộng rồi đưa dân đến cày cấy lập làng, ước ao cuộc sống no đủ. Họ đạt tên làng bắt đầu bằng chữ Phú, chữ An. Vô số làng có tên như Phú Lộc, Phú Nhiêu, Phú Đăng, Phú diễn, Phú Cốc, Phú Điền… nay là vùng đất Tuy Hòa. Nếu tính cả tỉnh có 176 làng lúc bấy giờ đã có 32 làng có tên bắt đầu bằng chữ Phú và 16 làng có tên bắt đầu bằng chữ An. Ở tỉnh Bình Định trong tổng số 676 làng thì tên bắt đầu bằng chữ An nhiều nhất là 54, còn chữ Phú thì chỉ có 40 (*)
(*) Theo Địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu, sđd)
Về sau số làng ở Phú Yên có tên chữ Phú tăng thêm vì tên cũ nôm na nên đổi tên mới gốc Hán như thôn Mái Nhà thành thôn Phú Ốc, Quán Mới thành Phú Tân.
Địa danh được nhắc đến như là tình cảm của lưu dân khi nhớ về quê cũ, nơi tổ tiên cha ông yên nghĩ và nơi bản thân mình đã chung sống một khoảng đời. Họ dùng tên làng cũ đặt cho vùng đất mới như thể hiện tình cảm của người đi xa luôn nhớ về quê hương và tên làng xã quen thuộc thường xuyên hiện diện ví như Phú Lộc, Vân Hòa ở huyện Phú Vang và Nam Đông của Thừa Thiên lại có ở Phú Yên.
Địa danh còn ca ngợi cảnh đẹp quê hương gắn liền với cuộc sống. Cảnh đẹp ở Tuy Phong ( say gió?) ven bờ biển cát giáp ranh với Qui Nhơn, núi đồi ra tận biển tạo ra những vũng kín tiếp nối nhau che chắn ngư thuyền đánh bắt hải sản vào mùa biển động.
Vũng Dông, Vũng Mắm, Vũng Chào,
Vũng La, Vũng Sứ vũng nào cũng thương.
Và hình ảnh:
Ngó lên Mỹ Thạnh cảnh tiên,
Cảnh tiên không thấy, thấy duyên của mình.
Hay:
Muốn qua Soi Bún ăn dưa
Sợ e Soi Bún đãi đưa nhiều lời.
Đó chỉ là cách nói hình ảnh, mượn thiên nhiên để gửi gắm tâm sự, và cũng là cái cớ để thăm dò tình cảm một cách kín đáo với người bạn gái mới quen. Tình yêu đã giúp họ vượt qua tất cả dẫu là núi, đèo, sông , suối: Gò Duối, Hòa Đa tuy xa mà gần gũi hơn nhiều. Cái tình nghĩa sâu nặng nhớ về Dốc Mụt chùa Lầu để rồi phải Biệt ly em hỡi để sầu cho ai.
Địa danh còn gắn liền với vùng đất trù phú của quê hương có nhiều thổ sản và ngành nghề truyền thống lâu đời
Ngó lên Đất Đỏ nhiều bắp nhiều khoai
Ngó xuống Đồng Dài nhiều mía nhiều tranh.
Hay:
Vinh Ba đan cót đan gàu
Phú Diễn chằm nón, Xóm Bàu vớt rong.
Nhớ về Ô Loan, thương người chiến sĩ yêu nước Lê Thành Phương chống Pháp:
Ô Loan nước lặng như tờ
Thương người chiến sĩ dựng cờ Cần Vương.
Nơi đây còn có nhiều đặc sản nổi danh một thời đã đi vào văn chương:
Lấy chi vui với thu tàn
Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu.
Nơi đất Phú trời Yên và ước vọng Phú chúng tôi của tiền nhân đi mở đất từ buổi xa xưa đã gắn liền với tên đất tên làng. Từ núi Ba Non đến núi Đá Bia ( Thạch Bi Sơn) gọi chung là dãy Đại lãnh mà năm Minh Mạng thứ 7 ( 1827) được chạm khắc vào Tuyên Đỉnh đạt trước Thái miếu bên điện Thái Hòa trong nội thành kinh đô Huế, cho đến núi đèo Cù Mông là ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên bắt đầu năm Tân Hợi 1611, biết bao địa danh người Việt xuất hiện đầu tiên trên vùng đất mà ông cha ta đã bốn trăm năm khẩn hoang lập ấp.
--- Bài cũ hơn ---
--- Bài mới hơn ---
Rồng trong thành ngữ và tục ngữ Việt Nam
Rồng lúc to lúc nhỏ
Lớn thì đào sơn đảo hải – nhỏ ẩn tích tàn hình
Đa mưu túc trí muôn đời thịnh
Hữu dũng vô mưu vạn đời suy
Ghen ăn tức ở muôn đời nát
Khiêm tốn nhường nhịn vạn kiếp sang.
Là con vật huyện thoại nhưng phổ biến, vừa cao quý, độc đáo, diệu kỳ lại vừa thân quen, gần gũi và giàu ý nghĩa biểu tượng, rồng (long) được lấy làm hình ảnh ẩn dụ sinh động cho nhiều câu thành ngữ, tục ngữ rộng rãi mà thâm thúy của người Việt Nam.
* Ăn như rồng cuốn: Ăn nhanh, ăn đến đâu hết đấy.
* Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội nước/uống như rồng leo, làm như mèo mửa: 1. Ăn nhiều, ăn tham mà làm ít, cẩu thả; 2. Ăn thật làm chơi.
* Cá do mồ mả tổ tiên được chôn vào chỗ đất đẹp.
* May hóa long, không may xong máu: Gặp may thì vinh hoa phú quý, không may thì chết.
* Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng: Bản chất đã xấu thì khó thể trở thành người tốt, kẻ thuộc tầng lớp dưới khó thể lên địa vị cao.
* Nem rồng chả phượng: Món ăn ngon, cầu kỳ và sang trọng.
* Như rồng gặp mây: Gặp người, gặp hoàn cảnh tương hợp, thỏa lòng mong mỏi khát khao.
* Nói như rồng cuốn: Nói những lời hay ý đẹp nhưng nói suông, chẳng bao giờ thực hiện điều gì mình đã nói, đã hứa.
* Nói như rồng leo: Nói năng khôn khéo, mạch bạo.
* Rồng bay phượng múa: Hình dáng, đường nét tươi đẹp, uyển chuyển, phóng khoáng.
* Rồng đen lấy nước thì nắng, rồng trắng lấy nước thì mưa: Một cách dự báo và lý giải trạng thái thời tiết qua hiện tượng thiên nhiên – mây (rồng lấy nước ở đây tức là đám mây hình cột từ phía biển vươn lên trời).
* Rồng đến nhà tôm: Người cao sang đến thăm kẻ thấp hèn (thường thấy trong lời ngoại giao, nói nhún của chủ nhà với khách).
* Rồng lội ao tù: Người anh hùng sa cơ thất thế, bị kìm hãm, tù túng, không có điều kiện thi thố tài năng.
* Rồng mây gặp hội: Cơ hội may mắn cho sự gặp gỡ và hòa nhập.
* Rồng nằm bể cạn phơi râu: Trạng thái thờ ơ vì bất lực của người vốn tài giỏi nhưng bị đặt trong môi trường khó hoạt động, khó phát triển được.
* Rồng thiêng uốn khúc: Người anh hùng, tài giỏi nhưng gặp vận xấu, phải sống nép mình, ẩn dật chờ thời cơ.
* Rồng tranh hổ chọi: Hai đối thủ hùng mạnh giao đấu.
* Rồng vàng tắm nước ao tù: Người tài giỏi ở trong hoàn cảnh bó buộc, bất lợi hoặc phải chấp nhận chung sống với kẻ kém cỏi.
* Thêu rồng vẽ phượng: Bày vẽ, làm đẹp thêm.
* Trai ơn vua – cưỡi thuyền rồng, gái ơn chồng – bồng con thơ: Một quan niệm xưa, cho rằng nghĩa vụ chính của người đàn ông là phụng sự nhà cầm quyền, còn của người đàn bà là chăm lo gia đình và con cái.
* Trứng rồng lại nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu: Tính tất yếu của sự bảo toàn, di truyền những giá trị và bản chất nòi giống.
* Vẽ rồng nên/ra giun: Có mục đích hay, tham vọng lớn nhưng do bất tài nên chỉ tạo ra sản phẩm xấu, dở.
* Vẽ rồng vẽ rắn: Bày vẽ lôi thôi, luộm thuộm, rườm rà.
--- Bài cũ hơn ---
--- Bài mới hơn ---
Sông sâu mà biển cũng sâu Muốn ăn cá lớn, rong câu cho dài Dốc lòng trồng cúc bẻ bông Ngó ra ngoài biển thấy ông đưa đò Anh ở làm sao cho biết đói biết no Biết ra khơi về lộng đây em lo kết nguyền Trời sinh có biển có nguồn Có ta, có bạn, còn buồn nỗi chi? Tháng chín mưa giông thuyền mong ghé bến Từ nơi bãi biển qua đến buổi chợ chiều Nuôi con chồng vợ hẩm hiu Nhà tranh một mái tiêu điều nắng mưa Động bể đông bắc nồi rang thóc Động bể bắc đổ thóc ra phơi Sự đời nghĩ cũng nực cười Một con cá lội mấy người thả câu Anh về xẻ gỗ bắc cầu Non cao anh vượt biển sâu anh dò Bây giờ sao chẳng bén cho Xa xôi cách mấy lần đò cũng đi
Trời cao hơn trán Trăng sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển Biển rộng hơn sông Anh đừng thương trước uổng công Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy thương
Ai về em gởi bức thơ
Hỏi người bạn cũ bây giờ nơi nao
Non kia ai đắp mà cao
Sông kia, biển nọ ai đào mà sâu
Non cao, biển cả
Con chim tra trả tìm mồi
Khi mô vật đổi sao dời
Đất Quảng Nam hết nước mới hết người tài hoa
Bãi biển Nha Trang mịn màng, trắng trẻo
Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh
Đêm đêm thơ thẩn một mình
Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây?
Ngó lên trên rừng thấy cặp cu đang đá
Ngó về dưới biển thấy cặp cá đang đua
Biểu anh về lập miếu thờ vua
Lập lăng thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Ngó lên rừng thấy cặp cua đang đá
Ngó xuống biển thấy cặp cá đang đua
Biểu anh về lập miếu thờ vua
Lập lăng thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Ngó lên rừng thấy cặp cu đương đá,
Ngó về Rạch Giá thấy cặp cá đương đua.
Anh về lập miếu thờ vua,
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Ngó lên trời thấy mây giăng tứ diện,
Ngó xuống biển thấy chim liệng cá đua.
Anh về lập miễu thờ vua,
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Biển cạn, sông cạn, lòng qua không cạn
Núi lở non mòn, ngỡi bạn không quên
Ðường còn đi xuống đi lên,
Tình qua nghĩa bậu quyết nên vợ chồng.
Sông cạn, biển cạn lòng ta không cạn
Núi lở non mòn, nghĩa bạn không quên
Đường còn đi xuống đi lên
Ơn bạn bằng biển, ta đền bằng non
Đường mòn duyên nợ không mòn
Chết thì mới hết, sống còn gặp nhau
Lời nguyền trước cũng như sau
Em không phụ khó, ham giàu ở đâu
Sông sâu còn có kẻ dò
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng
Lụa tốt xem biên
Người hiền xem tướng
Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy
Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa
Em thương anh không dám nói ra
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời
Anh với em cũng muốn kết đôi
Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan.
Đố ai tát bể Đông Khê
Tát sông Bồ Đề, nhổ mạ cấy chiêm
--- Bài cũ hơn ---
--- Bài mới hơn ---
Tuyển chọn những lời ca dao hay về TRÂU
Thuyduongnsx tuyển chọn
1. Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu
Tham vì ông lão tốt râu mà hiền
2. Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ.
3. Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cầy vợ cấy con trâu đi nằm
4. Đường về đêm tối canh thâu
Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười
5. Thiệt tình hỏng phải ba hoa
hôm qua tui thấy con gà đá trâu…..
6. Gà đá trâu bao lâu mới thắng
Trâu đá gà que cẳng con trâu
7. Ai nói chăn trâu là khổ??
Tôi chăn nàng còn khổ hơn trâu.
8. Dù ai buôn đâu bán đâu,
Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu.
9. Đêm qua kẻ trộm vào nhà,
Làm thinh chợp mắt để mà mất trâu.
Nằm đây chớ chẳng ngủ đâu,
Thức mà giữ lấy con trâu con bò.
Nằm đây nào đã ngủ cho,
Thức mà giữ lấy con bò con trâu.
10. Nghé ơi ta bảo nghé này
Nghé ăn cho béo nghé cày cho sâu.
Ở đời khôn khéo chi đâu,
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.
11. Chăn trâu chả biết mặt trâu
Trâu về cầu Cậy biết đâu mà tìm.
12. Ầu ơ… Ví dầu ví dẫu ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng
13. Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà
Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu bò
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm…
14. Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày giữ nghiệp nông gia.
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công!
Bao giờ cây lúa còn bông, thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”.
“Con trâu là đầu cơ nghiệp
15. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,
Bò năm sáu tuổi đã tranh về già,
Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,
Mùa đông tháng giá, bò dò làm sao!
16. Trên trời có đám mây xanh (4)
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng
Ước gì ta lấy được nàng
Hà Nội, Nam Ðịnh sửa đàng rước dâu
Thanh Hóa cung đốn trầu cau
Nghệ An thì phải thui trâu mổ bò
Phú Thọ quạt nước hỏa lò
Hải Dương rọc lá giã giò gói nem
Tuyên Quang nấu bạc đúc tiền
Ninh Bình dao thớt Quảng Yên đúc nồi
An Giang gánh đá nung vôi
Thừ Thiên Đà nẵng thổi xôi nấu chè
Quảng Bình Hà Tĩnh thuyề ghe
Đồng Nai Gia Dịnh chẻ tre bắc cầu
Anh mời khắp nước chư hầu
Nước Tây nước Tàu anh gởi thư sang
Nam Tào Bắc đẩu dọn đàng
Thiên Lôi La Sát hai hàng hai bên
17. Trời mưa trời gió đùng đùng
Bố con ông Nùng đi gánh phân trâu
Gánh về trồng bí trồng bàu
Trồng ngô, trồng lúa, trồng rau, trồng cà.
18. Nam mô Bồ Tát
Chẻ lạt đứt tay
Đi cày trâu húc
Đi súc phải cọc
Đi học thày đánh
Đi gánh đau vai
Nằm dài nhịn đói
19. Nước giữa dòng chê trong, chê đục
Vũng trâu đầm hì hục khen ngon
20. Đời vua Thái Tổ – Thái Tông
Lúa mọc đầy đồng trâu chẳng buồn ăn.
21. Thất là mất
Tồn là còn
Tử là con
Tôn là cháu
Lục là sáu
Tam là ba
Gia là nhà
Quốc là nước
Tiền là trước
Hậu là sau
Ngưu là trâu
Mã là ngựa
22. Trai thì cày ruộng khiển trâu
Gái thì phải biết bổ cau têm trầu
23. Trăm năm còn có gì đâu
Miếng trầu liền với con trâu một vần
24. Trâu bò được ngày phá đỗ
Con cháu được ngày giỗ ông
25. Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết
26. Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta
Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm
27. Trâu kia kén cỏ bờ ao
Anh kia không vợ đời nào có con
Người ta con trước, con sau
Thân anh không vợ như cau không buồng
Cau không buồng như tuồng cau đực
Trai không vợ cực lắm anh ơi
Người ta đi đón, về đôi
Thân anh đi lẻ, về loi một mình
28. Của chua ai nấy cũng thèm
Em cho chị mượn chồng em vài ngày
Chồng em đâu phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm
29. Dầu bông bưởi, dầu bông lài
Xức vô tới Tết còn hoài mùi cứt trâu
30. Dù ai buôn bán nơi đâu
Mồng Mười, tháng Tám chọi trâu thì về
31. Ðàn đâu mà gảy tai trâu
Ðạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi
32. Thương nhau vì nợ vì duyên
Trâu đôi chi đó, thổ điền chi đây
33. Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ
Về đâu trong đục mà chờ
Hoa thơm mất tuyết , nương nhờ vào đâu
Số em giàu, lấy khó cũng giàu
Số em nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo
Phải duyên phải kiếp thì theo
Giàu ăn khó chịu, lo gì mà lo
34. Chẳng qua số phận long đong
Cột trâu, trâu đứt, cột tròng, tròng trôi.
35. Lao xao gà gáy rạng ngày
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu.
Bước chân xuống cánh đồng sâu
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày.
Ai ơi! bưng bát cơm đầy
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng
Câu đố:
– Bốn ông đập đất, một ông phất cờ,
Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân. = con trâu
– Vừa bằng cái bát, san sát giữa đồng = vết chân Trâu
36. Ru Con
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười;
Con gà, be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm (1) bò vào;
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò;
Cỏ năn (2), cỏ lác (3) rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi bắt diều hâu;
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông.
Chú thích:
(1) Trúm : một thứ đó để bắt lươn
(2) Cỏ năn : một loài cỏ mọc dưới nước
(3) cỏ lác : thứ cỏ xấu
37. Thứ nhất vợ dại trong nhà,
Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.
Vợ dại thì đẻ con khôn,
Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm.
38. Trâu chậm thời anh bán đi,
Dao cùn đánh lại vợ thì làm sao.
39. Trâu anh con cưỡi con dòng,
Có con đi trước lòng thòng theo sau.
40. Trâu anh con cưỡi con dòng,
Lại thêm con nghé cực lòng thằng chăn.
41. Trâu buộc thì ghét trâu ăn,
Quan võ thì ghét quan văn dài quần.
42.Trâu kia kén cỏ bờ ao,
Anh kia không vợ đời nào có con.
43.Trâu khoẻ chẳng lọ cày trưa,
Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền.
44. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,
Bò năm sáu tuổi đã tranh cõi già.
Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,
Mùa đông tháng giá bò dò làm sao?
45. Em như ngọn cỏ phất phơ
Anh như con nghé nhởn nhơ giữa đồng
46. Mình rằng mình quyết lấy ta
Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này
Hăm ba nay đã đến ngày
Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng
Tháng giêng năm mới chưa nên
Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai
Tháng hai có đỗ có khoai
Ta lại vật nài cho đến tháng tư
Tháng tư ngày chẳn tháng dư
Ta lại chần chừ cho đến tháng năm
Tháng năm là tháng trâu đầm
Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên
Tháng sáu lo chửa kịp tiền
Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu
Tháng bảy là tháng mưa ngâu
Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu
Tháng tám là tháng trăng thu
Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi
Tháng chín là tháng mưa rươi
Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông
Quanh đi quẩn lại em đã có chồng
Như chim trong lồng, như cá cắn câu
47. Ông Giăng mà lấy bà Sao,
Đến mai có cưới cho tao miếng giầu.
Có cưới thì cưới con trâu,
Chớ cưới con nghé nàng dâu không về.
48. Ông giẳng ông giăng,
Xuống chơi với tôi,
Có bầu có bạn,
Có ván cơm xôi,
Có nồi cơm nếp,
Có nệp bánh chưng,
Có lưng hũ rượu,
Có chiếu bám đu,
Thằng cu xí-xóa,
Bắt trai bỏ giỏ,
Cái đỏ ẵm em,
Đi xem đánh cá,
Có rá vo gạo,
Có gáo múc nước,
Có lược chải đầu,
Có trâu cày ruộng,
Có muống thả ao,
Ông sao trên trời.
(Cái này thấy gọi là Ca dao nhi đồng, hihi)
49.Bước sang tháng sáu giá chân,
Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi.
Con chuột kéo cầy lồi lồi,
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong.
Vườn rộng thì thả rau rong.
Ao sâu giữa đồng, vãi cải làm dưa.
Đàn bò đi tắm đến trưa,
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.
Voi kia nằm ở gặm giường,
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.
Chuồn kia thấy cám liền ăn,
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua.
Trời mưa cho mối bắt gà,
Thòng-đong cân-cấn đuổi cò lao xao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Thóc giống cắn chuột trong bồ,
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu.
Chim chích cắn cổ diều hâu,
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm.
Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi.
Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai.
Hòn đá giẻo dai, hòn xôi rắn chắc.
Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi.
Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú.
Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu.
Hay cắn thì trâu, hay cày thì chó.
50. Nam mô bồ tát,
Chẻ lạt đứt tay,
Đi cày trâu húc,
Đi xúc phải cọc,
Đi học thầy đánh,
Đi gánh đau vai,
Nằm dài nhịn đói.
51. Con kiến mày kiện củ khoai,
Mày chê tao khó lấy ai cho giầu.
Nhà tao chín đụn mười trâu,
Lại thêm ao cá bắt cầu rửa chân.
52. Công anh chăn nghé đã lâu
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày?
53. Cưới em có cánh con gà,
Có dăm sợi bún, có và hạt xôi.
Cưới em còn nữa anh ơi!
Có một đĩa đậu hai môi rau cần.
Có xa dịch lại cho gần,
Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi.
Hay là nặng lắm anh ơi!
Để em bớt lại một môi rau cần.
Cưới nàng anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn.
Dẫn trâu sợ họ máu hàn,
Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo mời dân mời làng.
– Chàng dẫn thế em lấy làm sang
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang
Củ to thì để mời làng,
Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi.
Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà.
Bao nhiêu củ rím củ hà,
Để cho con lợn con gà nó ăn.
54. Ầu ơ… Ví dầu ví dẫu
ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng
55. Anh về bán ruộng cây da
Bán cặp trâu già, mới cưới đặng em
56. 17. Hò ơ.. (chớ) Bớ này anh nó ơi
Số phận em giao phó cho trời xanh
Lấy anh em không lấy,
Nhưng dạ cũng không đành làm ngơ
Vốn em cũng chẳng bơ thờ
Em đã hằng chọn trong lóng đục,
Nhưng vẫn còn chờ nợ duyên
Vốn em muốn lấy ông thầy thuốc cho giàu sang,
Nhưng lại sợ ổng hay gia hay giảm
Em muốn lấy ông thầy pháp cho đảm,
Nhưng lại sợ ổng hét la ghê gốc
Em muốn lấy chú thợ mộc,
Nhưng lại sợ chú hay đục khoét rầy rà
Em muốn lấy anh thợ cưa cho thật thà,
Nhưng lại sợ trên tàn dưới mạt
Em muốn lấy người hạ bạc,
Nhưng lại sợ mang lưới mang chài
Em muốn lấy anh cuốc đất trồng khoai,
Nhưng lại sợ ảnh hay đào hay bới
Em cũng muốn chọn anh thợ rèn kết ngỡi,
Nhưng lại sợ ảnh nói tức nói êm
Bằng lấy anh đặt rượu làm men,
Thì lại sợ ảnh hay cà riềng cà tỏi
Em muốn lấy ông nhạc công cho giỏi,
Nhưng lại sợ giọng quyển giọng kèn
Em muốn lấy thằng chăn trâu cho hèn,
Nhưng lại sợ nhiều điều thá ví
Em muốn lấy anh lái buôn thành thị,
Nhưng lại sợ ảnh kêu mắc rẻ khó lòng
Em muốn lấy anh thợ đóng thùng,
Nhưng lại sợ ảnh kêu trật niền trật ngổng
Em muốn lấy ông Hương ông Tổng,
Nhưng lại sợ việc trống việc gông
Em muốn lấy anh hàng gánh tay không,
Nhưng lại sợ đầu treo đầu quảy
Em muốn lấy chú hàng heo khi nãy,
Nhưng lại sợ chú làm lộn ruột lộn gan
Em muốn lấy anh thợ đát thợ đan,
Nhưng lại sợ ảnh hay bắt phải bắt lỗi
Em muốn lấy anh hát bè hát bội,
Nhưng lại sợ giọng rỗi giọng tuồng
Em muốn lấy anh thợ đóng xuồng,
Nhưng lại sợ ảnh hay dằn hay thúc…
Hò ơ.. (chớ) Mấy lời trong đục chẳng dám nói ra
Có thầy giáo tập dạy trong làng xa, hay dạy hay răn
So đức hạnh chẳng ai bằng, lại con nhà nho học
Sử kinh thầy thường đọc, nên biết việc thánh hiền
Gặp nhau em kết liền, không chờ chẳng đợi… (ờ)
Hò ơ.. (chớ) Không chẳng chờ chẳng đợi phỉ nguyền phụng loan
57. Hút sách là chuyện chẳng lành
Trâu bò vườn ruộng hoá thành khói mây
58. Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Cả ba việc ấy đều là khó thay.
59. Mười năm cắp sách theo thày
Năm thứ mười một vác cày theo trâu.
60. Bốn ông đập đất, một ông phất cờ,
Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân.
61.Ai cũng gặt lúa đỏ đuôi
Chàng về mà đập, mà phơi kịp ngày
Ai mà giã gạo ba chày
Giã sao cho trắng, gửi ngay cho chàng
Sẵn tiền mua bạc mua vàng
Sẵn tiền sắm áo cho chàng trẩy kinh
Sáng trời chàng mới tập binh
Em ngồi vò võ, một mình em lo
Ruộng nương không ai cày cho
Trâu bò, gà, lợn em lo dường nào!
Ruộng người cày cấy xôn xao
Ruộng nhà cỏ mọc lên cao lồng ngồng
Người ta có vợ có chồng
Cỏ cao, mạ úa nhưng lòng vẫn vui
Nhà ta chỉ có em thôi
Ruộng cạn mạ úa em ngồi em lo
62.Ai ơi uống rượu thì say
Bỏ ruộng trâu cày bỏ giống ai gieo.
63.Anh đánh thì tôi chịu đòn
Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa
Anh đánh thì tôi xin thưa
Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu
Ăn quen chừa được chẳng lâu
Lệ làng làng bắt mất trâu mặc làng
64.Ba vợ bảy tám nàng hầu
Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi.
65.Ăn thuốc bán trâu ăn trầu bán ruộng
66.Anh em bất nghĩa chi khèo
Anh dữ như mèo tôi lại như trâu
67.Bé ăn trộm gà
Già ăn trộm trâu
Lâu nữa làm giặc
68.Cầm trâu cầm áo cầm khăn
Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em !
69.Cái bống mặc xống ngang chân
Lấy chồng Kẻ Chợ cho gần, xem voi
Trèo lên trái núi mà coi
Thấy ông quản tượng cõi voi đánh cồng
Túi vóc mà thêu chỉ hồng
Têm trầu cánh phượng cho chồng đi thi
Một mai chồng đỗ, vinh quy
Võng anh đi trước, em thì võng sau
Tàn quạt, hương án theo hầu
Vinh quy bái tổ, giết trâu ăn mừng!
70.Cái kiến mà kiện củ khoai
Mày chê tao khó, lấy ai cho giầu
Nhà tao chín đụn mười trâu
Lại thêm ao cá, bắc cầu rửa chân
Cầu nầy là cầu ái ân
Một trăm con gái rửa chân cầu nầy
Có rửa thì rửa chân tay
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh
Nhà anh có một cây chanh
Nó chửa ra nhành nó đã ra hoa
Nhà anh có một mụ già
Thổi cơm không chín, quét nhà chẳng nên
Ăn cỗ khì đòi ngồi trên
Mâm son bát sứ đem lên hầu bà.
71.Bong bóng thì chìm gỗ lim thì nổi
Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai
Hòn đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc
Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi
Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú
Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu
Hay sủa thì trâu, hay cày thì chó…
(hình như vẫn còn tiếp thì phải)
72.Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu
Tham vì ông lão tốt râu mà hiền
Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ.
Chẳng tham nhà ngói ba tòa
Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành.
73.Chồng dữ thì em mới rầu
Mẹ chồng mà dữ giết trâu ăn mừng
74.Chùn đùi, thắt quản, ngắn đuôi
Sừng to móng hến thì nuôi đúng rồi
75.Cao đầu thấp hậu thì tậu liền tay
76.Cao vây, nhỏ sống thì rộng đường cày
77.Chết lỗ chân trâu
78.Có ăn có chọi mới gọi là trâu
79.Có xa dịch lại cho gần
Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi
Hay là nặng lắm anh ơi!
Để em bớt lại một môi rau cần.
Cưới nàng anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn.
Dẫn trâu sợ họ máu hàn
Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân
Dẫn con chuột béo mời dân mời làng.
80.Con cá rô thia ẩn bóng chân trâu
Một trăm quân tử tới câu cũng chẳng màng.
81.Con gái mười bảy bẻ gãy sừng
trâu
82.Con tằm nó ăn lá dâu
Có khi ăn mất cả trâu lẫn bò
83.Con vợ khôn lấy thằng chồng dại
Như bông hoa lài cặm bãi cứt trâu
84.Công anh chăn nghé đã lâu
Bây giờ nghé lớn thành trâu ai cày
85.Đàn đâu mà gảy tai trâu
Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi
86.Em thì canh cửi việc nhà
Nuôi anh ăn học đăng khoa bảng vàng
Trước là vinh hiển tổ đường
Bõ công đèn sách lưu hương con nhà
Rước vinh quy về nhà bái tổ
Ngả trâu bò làm lễ tế vua
Họ hàng ăn uống say sưa
Hàng Tổng hàng Huyện mừng cho ông Nghè
87.Dưa gang một chạp thì trồng
Chiêm cấy trước tết thì lòng đỡ lo
Tháng hai đi tậu trâu bò
cày đất cho ải mạ mùa ta gieo
88.Được voi to trâu bò chẳng kể
Hoa lan hoa huệ mới kể là hoa
Một lời đã trót nói ra
Dẫu cho bốn ngựa khó mà đuổi theo
89.Em là con gái nhà giàu
Mẹ cha thách cưới ra màu sinh sao
Cưới em trăm tấm gấm đào
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời
Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi
Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng
Sắm xe tứ mã đem sang
Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu
Ba trăm nón Nghệ đội đầu
Một người một cái quạt Tàu thật xinh
Anh về sắm nhiễu Nghi Ðình
May chăn cho rộng ta mình đắp chung
Cưới em chín chĩnh mật ong
Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò
Cưới em tám vạn trâu bò
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm
Lá đa mặt nguyệt hôm rằm
Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên Lôi
Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi
Xin chàng chín chục con dơi góa chồng
Thách thế mới thỏa trong lòng
Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân
90.Gió nam ào ạt gốc cây nằm mát
Chẻ lạt đứt tay, đi cày trâu húc
Đi xúc phải cọc, đi học thầy đánh
Đi gánh đau vai, nằm dài nhịn đói
91. Vợ bé nghé con
Sẩy đàn tan nghé
Hòn đá cheo leo,
Con trâu trèo, con trâu trợn
Con ngựa trèo, con ngựa đổ.
Anh thương em lao khổ
Tận cổ chí kim,
Anh thương em khó kiếm khôn tìm.
Cây kim luồn qua sợi chỉ,
Sự bất đắc dĩ phu mới lìa thê,
Nên hay không nên, anh ở em về,
Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương.
92.Lạc đường nắm đuôi chó
Lạc ngõ nắm đuôi trâu
93.Lao xao gà gáy rạng ngày
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu.
Bước chân xuống cánh đồng sâu
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày
Ai ơi! bưng bát cơm đầy
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng?
94.Làm ruộng có trâu làm giầu có vợ
Làm ruộng có trâu làm dâu có chồng
Một huyền hai lái chẳng xong
Một chĩnh hai gáo đừng nong tay vào
95.Lộn con toán bán con trâu
96.Mật ngọt rớt xuống thau đồng
Những lời anh nói cho lòng em say
Một trâu anh sắm đôi cày
Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia!
Chàng ơi! chàng cho em ra
Nhẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung.
97.Một rằng mình quyết lấy ta
Ta về bán cửa bán nhà mà đi
Ta về bán núi Ba Vì
Bán chùa Hương Tích, Phật đi làu làu
Ta về bán hết ngựa trâu
Bán hột thầu dầu, bán trứng gà ung
Bán ba mươi sáu Thổ công
Bán ông Hành Khiển, vợ chồng Táo Quân
Bán từ giờ Ngọ giờ Dần
Giờ Tí giờ Sửu giờ Thân giờ Mùi
Ta về bán cả que cời
Bán tro đun bếp bán trăm khêu đèn
Ta về bán trống bán kèn
Có gì bán hết, lấy tiền cưới em
98.Nghé hành nghé hẹ
Có khôn theo mẹ
Có khéo theo đàn
Chớ có chạy quàng
Có ngày lạc mẹ
Việc nhẹ phần con
Kéo nỉ kéo non
Kéo đến quanh tròn
Mẹ con ta nghỉ
99.Trăm năm cơ hội tình cờ,
Đàn cầm anh gãy, câu thơ anh đề.
Muốn cho thuận nẻo đi về,
Anh sang làm rể, em về làm dâu.
Số giàu lấy khổ cũng giàu,
Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo.
Phải duyên phải kiếp thì theo,
Khuyên em chớ nghĩ giàu nghèo làm chi.
Em ơi! chữ vị là vì,
Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo,
Ta đã yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát giang cũng lội, tam thập đèo cũng qua.
100.Trời mưa lâm râm
Cây trâm có trái
Con gái có duyên
Đồng tiền có lỗ
Bánh tổ thì ngon
Bánh dòn thì béo
Cái kéo thợ may
Cái cày làm ruộng
Cái xuổng đắp bờ
Cái lờ đơm cá
Cái ná bắn chim
Cái kim may áo
Cái giáo đi săn
Cái khăn bịt đầu
Cái cầu đi chợ
Có vợ đàn ông
Có chồng con gái
Cái trái mù u
Ông cu đi câu
Để trâu ăn lúa
Bắt được chặt đầu, chặt đầu đuôi
Còn hai con mắt đem nuôi mẹ già
Tướng Trâu
Cầm trâu cầm áo cầm khăn
Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em !
Đàn đâu mà gảy tai trâu
Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi
Chồng em đâu phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm
Trâu gầy cũng tầy bò giống
Ghi Chú: * Trâu gầy vẫn mạnh hơn bò
Mắt bánh rán,
Trán bánh chưng
Lưng tôm càng
Ghi Chú: * Trâu có mắt lớn, cái trán vuông vức như cái bánh chưng và
lưng không oằn là trâu khỏe mạnh
Đã có sừng thì đừng hàm trên
Ghi Chú: * Trâu không có răng hàm trên
Tai lá mít đít lồng bàn
Ghi Chú: * Trâu có tai lớn và mông bự là trâu tốt
Vành mồm trắng, mắt tai to
Hễ thưa lông bụng, móng hài cũng mua
Ghi Chú: * Trâu thưa lông bụng và vành mồm trắng mới là trâu có tướng
tốt
Sà sừng mắt lại nhỏ con
Vụng giàn chậm chạp ai còn nuôi chi
Ghi Chú: * Trâu có cặp sừng sệ xuống và mắt nhỏ thì chậm chạp
Vai nồi đồng, mông cối lỗ
Ghi Chú: * Vai to tròn, mông lớn là trâu tốt
Sừng to móng hến thì nuôi phải rồi
Ghi Chú: * Trâu có sừng to, mở Rộng là trâu đắc dụng
Tam tinh khoáy sọ thì chừa
Đốm đuôi nát chủ thì đưa vào nồi
Ghi Chú: * Trâu có khoáy sọ và đuôi có đốm là trâu độc dễ gây tai họa
nên giết thịt
Làm ruộng có trâu làm giầu có vợ
Làm ruộng có trâu làm dâu có chồng
Một huyền hai lái chẳng xong
Một chĩnh hai gáo đừng nong tay vào
Lúa Đồng Ngâu, trâu Yên Mỹ
Mất trâu mất ruộng không màng
Mất cây cuốc mục ra làng kiện thưa
Mất trâu thì lại tậu trâu
Những quân cướp nợ có (chẳng) giầu hơn ai ?
Một trâu anh sắm đôi cày
Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia
Chàng ôi! chàng cho em ra
Nhẽ đâu một ổ hai gà ấp chung ?
Một trâu anh sắm hai cày
Một chàng hai thiếp có ngày oan giạ
Chả yêu thì bỏ nhau ra
Làm chi một ổ hai gà ấp chung.
Yếu trâu cũng bằng bò khỏe
Con trâu ăn cỏ đất bằng
Uống nước bờ ao
Hồi nào mầy ở với tao
Đến khi mầy chết
Tao cầm dao xẻo thịt mầy
Thịt mầy nấu cháo linh binh
Da mầy bịt trống tụng kinh trong chùa
Sừng mầy tao tiện con cờ
Cán dao, cán mác, lược dầy lược thưa
Mua trâu cưới vợ làm nhà
Cả ba việc ấy đều là khó thay
Muốn giầu nuôi trâu nái
Muốn lụi bại nuôi chim bồ câu.
Ngày xưa Ninh Thích chăn trâu
Mà rồi công ấn công hầu trâu ơi !
Ngày nay mình nghé ta ngồi
Mai sau ta có một thời hiển vinh ?
Trâu he cũng bằng bò khỏe
Ghi Chú: * Trâu he là trâu nghé hay trâu còn non
Lang đuôi thì bán, lang trán thì cày
Ghi Chú: * Trâu có hoa trên trán thì giữ để cày ngược lại đuôi có hoa
thì đem bán
Phù thủy, thầy bói, lái trâu
Nghe ba anh ấy đầu lâu không còn
Trâu ác vạc sừng
Ghi Chú: * Trâu ác hay mài sừng để chiến đấu
Tậu trâu lấy vợ làm nhà
Trong ba việc ấy lọ là khó thay
Ruồi lằn chọi với bò trâu
Đàn gà quật với diều hâu mấy lần
Thật thà cũng thể lái trâu
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng
Trâu tóc chóp, bò mũ mấn
Ghi Chú: * Trâu có tóc chóp thì tốt, ngược lại bò có tóc chóp thì xui
xẻo
Trâu ra, mạ vào
Ghi Chú: * Cần cấy ngay sau khi cày ruộng xong
Trâu kia (già) kén (cắn) (ăn) cỏ bờ ao
Anh kia không vợ đời nào có con
Người ta con trước, con sau
Thân anh không vợ như cau không buồng
Cau không buồng như tuồng cau đực
Trai (Anh) không vợ cực lắm anh ơi
Người ta đi đón, về đôi
Thân anh đi lẻ, về loi một mình
Trâu năm sáu tuổi còn nhanh
Bò năm sáu tuổi đã tranh về già
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Hai sương một nang)Tắ đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Trâu ai buộc ngõ ông Cai
Hoãn ai mà lại đeo tai bà Nghè
Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè
Gà ai gáy ở đầu hè ông Cai
Ghi Chú: * Nghè là người đỗ tiến sĩ thời xưa; Hoãn là đôi bông tai
Trâu bò ở với nhau lâu quen chuồng quen chỏi
Người ở với nhau lâu, inh ỏi đủ điều
Trâu buộc thì ghét trâu ăn
Quan võ thì ghét quan văn dài quần
Trai thì cày ruộng khiển trâu
Gái thì phải biết bổ cau têm trầu
Ghi Chú: * Tục ăn trầu có ở hầu hết các nước Đông Nam Á; Xem: Trầu Cau
Trong Ca Dao
Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta (*)
Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm
Ghi Chú: * Hoặc: Trâu ta ăn cỏ đồng ta
Trâu khoẻ chẳng lo cày trưa
Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền.
Trâu kia chết để bộ da
Người chết để tiếng xấu xa muôn đời
Cao vây, dậy tiền, sâu vai, khai hậu
Ghi Chú: * Hai chân sau mở rộng gọi là khai hậu
Sừng cánh cắt, mắt ông voi
Ghi Chú: * Cặp sừng to lớn như cánh chim cắt là trâu tốt
Ăn thịt trâu không tỏi
Như ăn gỏi không rau mơ
Trâu quá sá, mạ quá thì
Ghi Chú: * Quá sá là quá già, không còn khả năng để cày cấy
Trâu dê chết để tế ruồi
Sao bằng khi sống cơi suồi kính dâng
Lại thêm tiền thấp hậu cao
Ghi Chú: * Hai vai trước thấp mà mông cao, con trâu đi chúi là khôphải
trâu tốt
Cao vây, nhỏ sống thì rộng đường cày
Ghi Chú: * Sống lưng phải vừa phải nhưng nổi cao thì trâu cày khỏe
Đầu thanh cao, rào thấp hậu
Chẳng tậu thì sao
Được voi to trâu bò chẳng kể
Hoa lan hoa huệ mới kể là hoa
Một lời đã trót nói ra
Dẫu cho bốn ngựa khó mà đuổi theo (*)
Ghi Chú: * Nguyên thủy: Nhất ký ngôn xuất tứ mãi nan truy
Ăn thuốc bán trâu ăn trầu bán ruộng
Trăm trâu trăm bó cỏ
Trâu đứng ăn năm
Trâu nằm ăn ba
Nghé hoa ba con ăn một (*)
Ghi Chú: * Câu đố toán học – Có bản khác: Con ở đàng xa một bó ba con
Chưa được thì khấn một trâu
Được rồi thì có trâu đâu cho bà
Anh có sừng trâu bạc
Tôi có gạc (có giác) trâu đen
Bụng trâu làm sao bụng bò làm vậy
Buộc trâu trưa nát chuồng
Ăn thịt trâu không có tỏi
Như ăn gỏi không có lá mơ
Béo như trâu chương
Đầu trâu mặt ngựa
Chăn trâu chả biết mặt trâu
Trâu về cầu Cậy biết đâu mà tìm.
Chị bị cứt trâu
Chị em dâu nấu đầu trâu thủng nồi
Chết đuối vũng trâu đằm
Anh Ngữ Tương đương: * To cut one’s throat with feather OR An
unfortunate man would be drowned in a tea cup)
Chết lỗ chân trâu
Tương Đương với Anh Ngữ : To cut one’s throat with feather OR An
unfortunate man would be drowned in a tea cup
Đàn gảy tai trâu (Đàn khảy tai trâu)
Đầu nheo còn hơn phèo trâu
Đến đâu chết trâu đến đấy
Đi sông đi biển không chết chết ở lỗ chân trâu
Làm cực như trâu
Tương Đương với Anh Ngữ : To work as hard as a horse
Chín đụn mười trâu chết cũng hai tay buông xuôi (cắp đít)
Tương Đương với Anh Ngữ : A handfull of ashes is all than remains of the
greatest. OR: It will all be the same a hundred years hence
Có ăn có chọi mới gọi là trâu
Gái mười bảy bẻ găy sừng trâu
Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu
Con trâu là đầu cơ nghiệp
Cống làng Tô trâu bò làng Hệ
Dắt trâu chui qua ống
Đi cày trâu hút đi xúc phải cọc
Trâu thì kho bò thì tái
Muống thì vừa cải thì nhừ
Đuôi chùng quá gối thì nào được đâu!
Ghi Chú: * Trâu có đuôi dài quá cũng không đắc dụng
Thứ nhất bó rễ, thứ nhì trễ cành
Trâu cổ cò, bò cổ vại
Ghi Chú: * Trâu phải có cổ dài, cổ bò lớn và ngắn thì tốt
Giờ trâu về chuồng
Hùng hục như trâu hút mả
Hùng hục như trâu lăn
Kẻ trâu trắng người trâu đen
Khấn trâu trả lễ bò
Khỏe như trâu
Không có trâu bắt bò đi đẩm
Làm kiếp trâu ăn cỏ làm kiếp chó ăn dơ
Làm kiếp trâu kéo cày trả nợ
Lấm như trâu đầm
Lắm rận thì giàu lắm trâu thì nghèo
Làm rể chớ xào thịt trâu làm dâu chớ đồ xôi lại
Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc
Lắm ruộng thì thâu lắm trâu thì bán
Làm thân trâu kéo cày trả nợ
Làm thân trâu ngựa
Lâu ngày cứt trâu hóa bùn
Lộn con toán bán con trâu (cả nhà)
Lộn thừng lộn chão quá hơn lộn trâu cày
Lòng trâu dạ chó
Máu đâu trâu đó
Máu trâu cũng như máu bò
Nằm trâu thổi sáo
Một con tằm cũng phải hái dâu một con trâu cũng phải đi chăn
Mua trâu bán chả
Mua trâu lựa nái cưới gái lựa dòng
Mua trâu vẽ bóng
Muốn giàu nuôi trâu cái
Nai lưng trâu
Nhịn thuốc mua trâu nhịn trầu mua ruộng
Tương Đương với Anh Ngữ : Take care of the pence and the pounces will
take care of themselves
Phản chủ đầu trâu
Ăn cơm nhà Phật, Ðốt trâu nhà chùa
Phản chủ đầu trâu Ăn cơm nhà Phật
Đốt trâu nhà chùa
Ruộng sâu trâu nái
Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng
Thui trâu nửa mùa hết rơm
Tham bong bóng bỏ bọng trâu
Thật thà lái buôn (trâu)
Vễnh sừng, tóc chớp cả nhà mang tai
Ghi Chú: * Trâu loại nầy dữ, hay nổi khùng như trâu điên dễ gây tai vạ
Sông Sâu (hoắm) không chết, chết vũng trâu đầm
Tương Đương với Anh Ngữ : To cut one’s throat with feather OR An
unfortunate man would be drowned in a tea cup
Thà chết vũng trâu hơn chết khu đĩa đèn
Trật con toán bán cái nhà (con trâu)
Trâu béo kéo trâu gầy
Trâu bò được ngày phá đỗ
Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết
Trâu buộc ghét trâu ăn
Trâu cày ngựa cỡi (ngựa cưỡi)
Trâu chậm uống nước đục (nước dơ)
Trâu ngơ ăn cỏ héo
Tương Đương với Anh Ngữ: He that comes first to the hill may sit where
he will. OR: Delays are dangerous
Trâu chết bò cũng lột da
Trâu chết chẳng khỏi rơm
Trâu chết để da người ta chết để tiếng
Trâu chết mặc trâu bò chết mặc bò
Củ tỏi giắt lưng
Trâu cho ra trâu cho
Bò bán ra bò bán
Trâu cột ghét trâu ăn
Trâu đạp cũng chết voi đạp cũng chết
Trâu dong bò dắt
Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy
Trâu già đâu (không) nệ dao phay
Trâu hay ác thì trâu vạt sừng
Trâu ho cũng bằng bò khỏe
Trâu lấm vẫy quàng
Trâu lành (Trâu sống) không ai mà cả
Trâu ngã nhiều gã cầm dao
Trâu leo cày muỗm
Trâu ngã lắm kẻ cầm dao
Trâu nghiến hàm bò bạch thiệt
Trâu ta ăn cỏ đồng ta
Trâu teo heo nở
Trâu thịt thì gầy trâu cày thì béo
Trâu tìm cọc cọc chẳng tìm trâu
Trâu tìm cột cột không tìm trâu
Trâu toi thì bò ngã
Trâu trắng đi đâu mất mùa tới đấy
Trâu trắng trâu đen
Đốm đầu thì nuôi, đốm đuôi thì thịt
Thân trâu trâu lo thân bò bò liệu
Tiếc thịt trâu toi
Trai mười bảy bẻ gãy sừng trâu
Trăm trâu cũng một công chăm
Vác bổi thui trâu
Ghi Chú: Ý nói không liệu sức mình; Tương đương với câu: Liệu cơm gắp
mắm
Vô một gà ra phải ba trâu
Voi địt hơn trâu rống
Khoáy sừng, khoáy sọ, khoáy tai
Tam tinh, chằng ách làm tai chúa nhà
Đầu gà còn hơn đuôi phượng (đuôi trâu)
Tương Đương với Anh Ngữ : Better be the head of a dog than a tail of a
lion Làm chủ một nơi còn hơn làm tôi tớ kẻ khác.
Dùng dao mổ trâu (mổ bò) cắt tiết gà
Tương Đương với Anh Ngữ : To use a steam hammer to crack nuts Xử dụng
không đúng chỗ
Chung nốt làm cầu, chung trâu làm trống
Chỉ đường cho Mọi trộm trâu
Trâu hoa tai, bò gai sừng
Ghi Chú: Trâu có hoa tai cũng như bò có gai sừng là hai con vật không
nên nuôi
Thưa lông, mọng da, mõm giỏ
Ghi Chú: * Trâu lông thưa, miệng rộng mõm dài, miệng như cái giỏ mới tốt
Trâu nghiến hàm, bò bạch thiệt
Ghi Chú: * Trâu nghiến hàm chặt lại là trâu xấu
Hàm nghiến, lưỡi đốm hoa cà
Vểnh sừng tóc chóp, cửa nhà mang tai
Ghi Chú: * Lưỡi trâu có đốm hoa cà là trâu tốt
Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi
Mua trâu xem vó, mua chó xem chân
Chùng đùi, thắt quản, ngắn đuôi
Sừng to móng hến thì nuôi đúng rồi
Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà
Ghi Chú: * Châm biếm người lái máy cày phải được ăn sang, nông dân phải
chịu tốn kém
Trâu ác là trâu vạc sừng
Bò ác là bò còng lưng méo sườn
Lọ đầu thì bán
Lọ trán thì nuôi
Lọ đuôi thì thịt
Post ngày:
10/05/17
--- Bài cũ hơn ---
--- Bài mới hơn ---
CA DAO VẦ QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
1- Ðất Quảng nam chưa mưa đã thấm Rượu Hồng Ðào chưa nhấm đã say Bạn về đừng ngủ gác tay Nơi mô nghĩa nặng, ân đầy thì theo 2- Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo Bình Ðịnh nằm co, Thừa Thiên ăn hết… 3- Học trò trong Quảng ra thi Thấy cô gái Huế chân đi không đành. 4- Ai đi phố Hội, Chùa Cầu Ðể thương , để nhớ, để sầu cho ai, Ðể sầu cho khách vãng lai, Ðể thương để nhớ cho ai chịu sầu 5- Thương nhau chớ quá e dè, Hẹn nhau gặp lại bến Cầu Rô Be. Thiếp nói thì chàng phải nghe Thức khuya, dậy sớm, làm chè10 ngày 12 xu Mãn mùa chè, nệm cuốn sàn treo Ta về, bỏ bạn, cheo leo một mình, Bạn ơi, bạn chớ phiền tình, Mùa ni không gặp, xin hẹn cùng mùa sau Lạy trời, mưa xuống cho mau Chè kia ra đọt, trước sau cũng gặp chàng 6- Rằng xa: cửa ngõ cũng xa Rằng gần: Vĩnh Ðiện, La Qua cũng gần 7- Chiều chiều mây phủ ải vân Chim kêu gành đá, gẫm thân lại buồn 8- Chiều chiều mây phủ Sơn Trà Lòng ta thương bạn, nước mắt và trộn cơm 9- Ðứng bên ni sông, ngó qua bên kia sông Thấy nước xanh như tàu lá, Ðứng bên ni Hà Thân, ngó qua Hàn Thấy phố xá nghinh ngang Kể từ ngày Tây lại đất Hàn, Ðào sông Cù Nhĩ, tìm vàng Bồng Miêu. Dặn tấm lòng, ai dỗ cũng đừng xiêu, Ở nuôi thầy mẹ, sớm chiều cũng có anh 10- Ngó lên Hòn Kẻm, Ðá Dừng Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi 11- Ai đi cách trở sơn khê Nhớ tô mì Quảng, tình quê mặn mồng 12- Hội An đất hẹp, người đông Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu 13- Hội An bán gấm, bán điều Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành -14 Chiêm Sơn là lụa mỹ miều Sớm mai mắc cưởi, chiều chiều bán tơ 15- Chồng em là lái buôn tiêu Ði lên đi xuống Trà Nhiêu, Kim Bồng -16 Tơ cau thuốc lá đầy ghe Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần. 17- Nem chả Hòa Vang Bánh tổ Hội An Khoai lang Tiên Ðỏa Thơm rượu Tam Kỳ Ai đi cách trở sơn khê, Nhớ tô mì Quảng,tình quê mặn nồng . Mì Quảng là món ăn chủ lực, bình dân của đất Quảng,nên đi đâu ở đâu , mà dân Quảng ăn được tô mì Quảng thì khoái khẩu, mặn mà nhất. 18.- Hội An đất hẹp, người đông , Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu . Phố Hội an nhỏ hẹp ,nhưng ai đã ở Hội An một thời gian rồi ,khi rời Hội an không làm sao quên được tình cảm nồng hậu của cư dân ở đây. 19.- Hội An bán gấm, bán điêù Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành . Hội An, là thương cảng nên buôn bán hàng hoá sang đẹp , còn Kim Bồng,Trà Nhiêu là vùng ngoaị ô , chuyên sản xuất rau cải đem qua bán ở Hội An. 20.- Ðưa tay hốt nhắm dăm bào, Hỏi thăm chú thợ bữa nào hồi công, Không mai thì mốt, hồi công,
Hội An em ở, Kim Bồng anh dời chân Kim Bồng là một xã bên kia sông, đôí diện với Hội.An,sản xuất nhiều nghệ nhân đồ mộc,hằng ngày qua phố Hôị làm việc, nên những cô gái đến hốt dăm bào về nấu bếp,bèn hát những câu trữ tình để ghẹo chú thợ mộc. 21.- Năm hòn nằm đó không sai, Hòn Khô, Hòn Dài, lố nhố thêm vui, Ngó về Cửa Ðại, than ôi, Hòn Nồm nằm dưới mồ côi một mình. Cù Lao Chàm, nằm ngoài khơi tỉnh,gồm năm hòn đảo, hòn Nồm là đảo nằm riêng một mình ,không chen vơí các hòn đảo khác . 22.- Sáng trăng, trải chiếu hai hàng, Cho anh đọc sách, cho nàng quay tơ . Quay tơ vẫn giữ mối tơ, Dù năm bảy mối vẫn chờ mối anh . Cảnh sinh hoạt ở thôn quê, dưới ánh trăng, chàng đọc sách, nàng quay tơ, chàng nhắn với nàng giữ tình chung thủy chờ chàng. 23.- Ai về nhắn với ngọn nguồn, Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên. Người miền biển có cá chuồn làm mắm , nguời miền núi có mít non gởi xuống để trao đổi lương thực
--- Bài cũ hơn ---
--- Bài mới hơn ---
Câu ca dao, tục ngữ Quảng Ninh
Tục ngữ ca dao về chốn tâm linh
*Trăm năm tích đức tu hành
Chưa đi Yên Tử chưa thành quả tu.
* Ai đi Yên Tử cùng anh
Khói hương nghi ngút còn vương hạ Trần.
* Nào ai quyết chí tu hành
Hãy về Yên Tử mới đành làm tu.
*Lần theo dấu tích ngàn xưa
Bảy trăm năm ấy bây giờ còn lưu.
* Vĩnh Nghiêm, Yên Tử, Quỳnh Lâm
Ai chưa đến đó thiền tâm chưa đành.
*Miếu Đức Ông là nơi Cửa Suốt
Khách vẫn lại thương nhớ cùng dâng.
* Bao giờ sấm chớp Chùa Lôi
Con ơi nhớ dậy mang nồi ra sân.
* Mồng bảy hội miếu Tiên Công
Dưới là đánh vật trên rồng phi bay.
Đêm thì hát đúm vui thay
Bên này thi cấy, bên đây đua thuyền.
*Chùa Quỳnh vui lắm ai ơi
Trốn cha, trốn mẹ mà chơi Chùa Quỳnh.
* Chùa Quỳnh khánh đá, chuông đồng
Muốn chơi thì lấy của chồng mà chơi.
Tục ngữ ca dao thời kì kháng chiến chống Pháp
* Vua thua ông huyện Hoành Bồ.
* Cọp dữ Mông Dương, nước độc Hà Tu
Da dày, bụng ỏng, mặt phù, chân sâu.
*Chưa đi chưa biết Vàng Danh
Đi ra khốn khổ thân anh thế này.
*Chưa đi chưa biết Vàng Danh
Má hồng để lại, má xanh mang về.
*Ai đi Uông Bí, Quảng Hồng
Có đoàn vệ quốc dân công qua đèo
Ai về cho ta về theo
Có sông cũng lội , có đèo cũng qua.
*Sông sâu còn có kẻ dò
Tội ác chủ mỏ ai dò cho ra.
* Đào than cho nó làm giàu
Xúc vàng đem đổ xuống tàu cho Tây.
* ở quê cái khổ bám theo
Ra mỏ cái khổ nó trèo lên lưng.
* Đau đẻ cũng phải xúc than
Đẻ rơi cũng mặc kêu van hững hờ.
*Lầm than cực khổ thế này
Xúc than cuốc đất suốt ngày lọ lem.
*Khi xưa nghe tiếng còi tầm
Như nghe tiếng vọng từ âm phủ về.
* Thẻ tôi lĩnh có hai đồng
Ông cai lĩnh hộ trừ công năm hào.
*Cây mắm cò quăm
Cây sú cù queo
Thắt lưng cho chặt mà theo anh về
Ăn cơm với cá mòi he
Lấy chồng Cẩm Phả đun xe suốt đời.
* Ai ra Cẩm Phả mà xem
Rừng xanh ngăn ngắt, đất đen sì sì
Đã làm cái kiếp cu li
Còn gì là đẹp còn gì là vui.
* Đồn Cẩm Phả sơn hà bát ngát
Huyện Hoành Bồ đồi cát mênh mông
Ai ơi, đứng lại mà trông
Kìa khe nước độc, nọ ông hùm già
Việc gì mà rủ nhau ra
Làm ăn cực khổ nghĩ mà tủi thân.
* Ai về Yên Dưỡng, Hoành Mô
Mà xem quân lính cụ Hồ sang sông
Đêm ngày mải mê chiến công
Thoáng nom như có cả chồng em kia.
* Thuyền than mà đậu bến than
Thương anh vất vả cơ hàn nắng mưa.
* Thuyền than đậu bến đen sì
Anh không ra mỏ lấy gì em ăn.
Ca dao tục ngữ giao duyên
* Ai về chợ huyện Thanh Vân
--- Bài cũ hơn ---
--- Bài mới hơn ---
Có sông Tam Bạc, có lò Xi măng
Không giết được giặc, không về Núi Voi
Chồng hút, vợ say
Thằng con châm đóm
Lăn quay ra giường
Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai bận rộn trăm nghề
Mùng chín tháng tám nhớ về chọi trâu
Vác nồi rang thóc
Sấm động bên sóc
đổ thóc ra phơi
Nhất đông chợ Giá, nhất to sông Rừng
(Thủy Nguyên)
Còn một con út nẩy lòng bất nhân
(Địa hình Đồ Sơn ví như một con Rồng đang chầu về viên ngọc là Hòn Dáu. Sách cổ gọi núi Đồ Sơn là Cửu Long – chín rồng với câu ca trên. Con út ở đây là núi Độc, đứng riêng hẳn ra ở đầu bán đảo. Thực ra có tới 15 điểm cao từ 25m đến 129m trong dãy núi này, cao nhất là Đồn cao. Trên đỉnh núi còn những dãy tường thành, dấu vết đồn luỹ của Phạm Đình Trọng, một tướng Chúa Trịnh đi đàn áp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, thế kỷ 18)
Giữa khúc Nụ Đăng (Tiên Lãng)
Triều thủy nam hồi phú quí nguyên
Dịch nghĩa:
“Núi My Sơn phía bắc tạo thế văn chương
Ngọn triều phía nam đem lại nguồn giàu có”
My Sơn là xã ở Thủy Nguyên.
— Theo Boxxyno.com —
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan
Nước mắm Vạn Vân
Cam Đồng Dụ
Cau Văn Ú
Vú Đồ Sơn
(Câu cổ đó)
Văn học mình thấp kém không tìm được nhiều bài cho lắm nhưng nay cũng mạng phép đóng góp 1 vài bài , có gì xin các anh chị đóng góp ý kiến :
1) Đống Đa ghi để lại đây
Bên kia Thanh Miếu bên này Bộc An
2) Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến ba lần giặc tan
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn tiến ra
3) Vải Quang , hung Láng , ngổ Đầm
Cá rô Đầm Sét , sâm cầm Hồ Tây
4) Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị , có chùa Tam Thanh
5) Đông Ba Gia Hội hai cầu
Ngó lên Diệu Đế bớn lầu hai chuông
6) Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương
7) Rồi mùa toóc(a) rã , rơm khô (a) : rạ
Bạn về quê bạn biết mô(b) mà tìm (b) : Đâu
--- Bài cũ hơn ---
--- Bài mới hơn ---
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tối có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con!
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa, cò về?
Cò về đến gốc cây đề,
Giương cung anh bắn cò về làm chỉ
Cò về thăm bác thăm dì,
Thăm cô xứ Bắc thăm dì xứ Đông.
Con cò lấp lé bụi tre
Sao cò lại muốn lăm le vợ người
Vào đây ta hát đôi lời
Để cho cò hiểu sự đời , ở ăn
Sự đời cò lấy làm răn
Để cho cò khỏi băn khoăn sự đời.
Cái cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng.
Cái cò bay bổng bay lơ
Lại đây anh gởi xôi ngô cho nàng.
Đem về nàng nấu nàng rang,
Nàng ăn có dẻo thì nàng lấy anh.
Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò,
Không, không! Tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà vạc đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin ông đứng ông coi
Mẹ con nhà nó còn ngồi đấy kia!
Cái cò cái vạc cái nông
Ba con cùng béo, vặt lông con nào
Vặt lông con vạc cho tao
Mắm muối bỏ vào, xào rán rồi thuôn!
Cái cò cái vạc cái nông
Cùng ăn một đồng nói chuyện giăng ca
Muối kia đổ ruột con gà
Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình.
Cái cò chết tối hôm qua
Có hai hạt gạo với ba đồng tiền
Một đồng mua trống mua kèn
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong
Một đồng mua mớ rau răm
Đem về thái nhỏ thờ vong con cò.
Cái cò lặn lội bờ ao
Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay
Em về giục mẹ cùng thầy,
Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong?
Cổ yếm em thõng thòng thòng,
Tay em đeo vòng như bắp chuối non.
Em khoe em đẹp em giòn,
Anh trông nhan sắc em còn kém xuân.
Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay ngồi một xó, hay ăn thịt gà
Ai ra ruộng chú ở nhà
Nói thì dở giọng ba hao chích chòe!
Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa
Ngày thì ước những ngày mưa!
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Cái cò lặn lội bờ sông,
Muốn lấy vợ đẹp, nhưng không có tiền!
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Chàng đi xa vợ xa con
Chàng đi đến tận nước non Cao Bằng
Chân đi nhưng dạ dùng dằng
Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con!
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non cùng người
Cái cò lặn lội bờ sông
Cổ dài mỏ cứng cánh cong lưng gù
Bã xa sông rộng sóng to
Vì lo cái bụng đi mò cái ăn.
Cái cò là cái cò con
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà
Mẹ đi lặn lội đồng xa
Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn
Ông kia có cái thuyền buồm
Chở vào rừng rậm xem lươn bắt cò
Ông kia chống gậy lò dò
Con lươn thụt xuống, con cò bay lên.
Cái cò là cái cò kỳ
Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô
Đêm nằm thì ngáy o o
Chưa đi đến chợ đã lo ăn quà
Hàng bánh hàng bún bầy ra
Củ từ khoai sọ, đến bà cháo kê
Ăn rồi cắp đít ra về
Thấy hàng chả chó, lại lê chân vào
Chả này bà bán ra sao
Ba đồng một gắp, thì nào tôi mua!
Nói dối rằng mua cho chồng
Về đến quãng đồng, ngả nón ra ăn
Ăn rồi đau quặn đau quăn
Chạy về cho kịp, nằm lăn cả ngày
Đem tiền đi bói ông thầy
Bói ra quẻ này: những chả cùng nem
Ông thầy nói dối đã quen
Nào ai ăn chả ăn nem bao giờ!
Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ mày nằm với ai?
Có đánh thì đánh sớm mai,
Chớ đánh chập tối chẳng ai cho nằm!
Cái cò là cái cò vàng
Mẹ đi bán hàng, nhà lại vắng cha
Vắng cha thì ở với bà
Không ở với chú, chú là đàn ông.
Cái cò là cái cò vàng
Mẹ đi đắp đàng con ở với ai
Con ở với bà, bà không có vú
Không ở với chú, chú là đàn ông.
Thôi con chết quách cho xong!
Con cò là con cò vàng
Muốn đi hát đúm sợ làng cười chê
Ai cười lời kẻ thôn quê
Mà cò ngần ngại đứng lề đường quan
Hay cò vui câu xẩm xoan
Thì cò bay đến hân hoan cùng người.
Cái cò mà mổ cái tôm
Cái tôm quắp lại mà ôm cái cò.
Cái cò mà mổ cái trai,
Cái trai quắp lại mà nhai cái cò.
Cái cò trắng bạch như vôi
Cô kia có lấy chú tôi thì về.
Chú tôi chẳng mắng chẳng chê,
Thím tôi thì mổ lấy mề nấu canh!
Con cò trắng bệch như vôi
Đừng nông nổi nữa, đừng lời nguyệt hoa
Ví dù muốn đẹp đôi ta
Đừng như cánh bướm quanh hoa đầu mùa
Đừng vê thuốc, đừng bỏ bùa
Đừng như chú tiểu ở chùa Thiều Quang
Đừng thắm nhạt, đừng đa đoan
Nên duyên thì phượng với loan một lời
Giăng kia vằng vặc giữa giời
Giăng ai soi tỏ lòng người nầy cho.
Con cò trắng tợ như vôi
Tình tôi với bậu xứng đôi quá chừng!
Con cò trắng toát như bông
Muốn nghe hát đúm mà không chịu vào
Nghĩ gì, cò đậu cành cao
Nghiêng nghiêng, nghé nghé nửa chào nửa e
Xuống đây cho ta nhắn nhe
Đừng đứng trên ấy gãy tre của làng.
Cái trai mày há miệng ra,
Cái cò nó mổ muốn tha thịt mày.
Cái cò mày mổ cái trai,
Cái trai quặp lại muốn nhai thịt cò.
Con cò mà mổ con trai
U ơi, U lấy vợ hai cho thầy.
Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2022
--- Bài cũ hơn ---
--- Bài mới hơn ---
Hang hùm nọc rắn: Còn gọi là hang hùm miệng rắn, chỉ nơi nguy hiểm đến tánh mạng.
Vẽ rồng vẽ rắn: Bày đặt thêm nhiều chuyên đề cho sự việc càng rắc rối thêm.
Khẩu Phật tam xà: Nghĩa đen là miệng Phật lòng rắn, ý nói những kẻ bề ngoài miệng nói ra toàn chuyện đạo đức nhưng trong lòng ẩn chứa toàn chuyện gian ác.
Rắn đến nhà không đánh thành quái: ý nói nuôi dưỡng kẻ xấu ở trong nhà thì có ngày nó sẽ hại mình.
Oai oái như rắn bắt nhái: Chê trách những kẻ hay kêu la những chuyện không đáng.
Rắn rết bò vào, cóc nhái bò ra: Chỉ một nơi hoang vu không có người qua lại.
Rắn Mai tại chỗ, rắn Hổ về nhà: (Mai là mai gầm, hổ là hổ mang) đây là hai loài rắn độc cắn người đưa đến cái chết tức thời
Rắn trong lỗ bò ra: Lời nói khéo léo khiến ai nghe cũng phải xiêu lòng.
Rắn đổ nọc cho lươn: Đổ lỗi cho kẻ khác
Như rắn mất đầu: Không người chỉ huy mất phương hướng.
Len lét như rắn mồng năm: ý nói sợ sét, nhút nhát.
Vẽ rắn thêm chân: Bịa đặt thêm nhiều chuyện để sự việc thêm khó khăn, rắc rối.
Cõng rắn con gà nhà: Hành động phản bội lại nhân dân.
Ăngià rắn lột, người già người tụt vào săng: Câu nói đùa, nói lên quy luật tự nhiên của con người là mọi người rồi ai cũng phải chết.
Cha hổ mang đẻ con liu điu: Hổ mang và liu điu là hai giống rắn, cha độc ác thì sanh con cũng độc ác.
Liu điu lại nở ra dòng liu điu: ý nói cha nào, con nấy.
Thằn lằn, rắn ráo: Chỉ những kẻ không đứng đắn.
Nói rắn nói rồng: Nói dài dòng những chuyện không đâu
Thuồng luồng ở cạn: ý nói người không phát huy được tác dụng vì ở xa môi trường của mình.
Thẳng như rắn bò: Có ý mỉa mai ai.
Bạnh như cổ hổ mang: Chỉ sự so sánh.
Thao láo như mắt rắn ráo: Mắt mở to. Chỉ sự so sánh giữa mắt người và mắt rắn.
Sư hổ mang, vãi rắn rết: Chỉ những người tu hành giả nhân giả nghĩa.
Rắn đi còn đầm lại: ý nói mầm độc hại đã trừ khử nhưng di căn gốc rễ vẫn còn.
Đánh rắn giữa khúc: Chỉ tính chất và việc làm không triệt để để khử trừ mầm độc hại.
Đánh rắn phải đánh dập đầu: ý nói muốn trừ khử mầm độc hại phải diệt tận gốc rễ.
– Tuổi Tỵ rắn ở bọng cây Nằm khoanh trong bụng có hay chuyện gì! – Cần chi cá lóc, cá trê Thịt chuột, thịt rắn nhậu mê hơn nhiều. Hi. – Câu đố: Con gì trườn dọc bờ ao Bắt ếch, bắt nhái le vào le ra? TVT sưu tầm
Trần Văn Thọ @ 22:32 21/12/2012
Số lượt xem: 4933
--- Bài cũ hơn ---
Bạn đang đọc các thông tin trong chủ đề Ca Dao Tục Ngữ Về Phú Thọ trên website Altimofoundation.com. Hy vọng những nội dung mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích đối với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!