ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊNTRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
BÙI CÔNG ĐOẠT
TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨNGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊNTRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
BÙI CÔNG ĐOẠT
TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNHChuyên ngành: Văn học Việt NamMã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨNGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Huế
Thái Nguyên – 2018LỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệutrích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đềutrung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018Tác giả luận văn
Bùi Công Đoạt
LỜI CẢM ƠNĐể hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơnBan Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trựctiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướngdẫn PGS. TS. Nguyễn Thị Huế đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thờigian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúpđỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018Tác giả luận văn
Bùi Công Đoạt
MỤC LỤCMỞ ĐẦU ………………………………………………………………………………………….. 11. Tính cấp thiết của đề tài ………………………………………………………………….. 12. Tổng quan vấn đề nghiên cứu …………………………………………………………… 23. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu …………………………………………………….. 34. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ………………………………………………. 4
5. Phạm vi nghiên cứu …………………………………………………………………………. 56. Cấu trúc của luận văn ………………………………………………………………………. 57. Đóng góp của luận văn …………………………………………………………………….. 6NỘI DUNG……………………………………………………………………………………….. 7Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUANĐẾN ĐỀ TÀI ……………………………………………………………………………………. 71.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, đời sống văn hóa,con người Ninh Bình …………………………………………………………………………… 71.2. Đời sống văn hóa, con người Ninh Bình …………………………………………. 101.3. Khái niệm Tục ngữ, Ca dao, Địa danh …………………………………………….. 151.4. Văn học dân gian Ninh Bình và tục ngữ, ca dao Ninh Bình ……………….. 181.5. Tục ngữ, ca dao Ninh Bình …………………………………………………………… 20Tiểu kết chương 1……………………………………………………………………………….. 23Chương 2: TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH VỀ MẢNHĐẤT CON NGƯỜI VÀ SẢN VẬT ……………………………………………………. 252.1. Tục ngữ, ca dao địa danh về đất Ninh Bình …………………………………….. 252.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về người Ninh Bình …………………. 312.3. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu sản vật, nghề nghiệpvà phong tục. …………………………………………………………………………………….. 392.4. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình giới thiệu về phong tục, lễ hội …… 49Tiểu kết chương 2……………………………………………………………………………….. 53
Chương 3: TỤC NGỮ CA DAO ĐỊA DANH NINH BÌNH VỀ KINHNGHIỆM SẢN XUẤT, QUAN HỆ XÃ HỘI……………………………………………. 553.1.Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về kinh nghiệm sản xuất ……………. 553.2. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình về các quan hệ xã hội ……………….. 613.3. Tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bình thể hiện tinh thần lạc quan,Yêu đời …………………………………………………………………………………………….. 80Tiểu kết chương 3……………………………………………………………………………….. 82KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………. 84TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………. 86PHỤ LỤC ………………………………………………………………………………………… 90
MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài (Lý do chọn đề tài)Có thể nói rằng Văn học dân gian là một phần không thể tách rời nền vănhọc dân tộc . Ra đời rất sớm (từ khi con người chưa có chữ viết) bộ phận văn họcnày đã góp phần nuôi dưỡng, vun đắp nền văn học Việt Nam. Trong dòng chảycủa lịch sử, văn học dân gian Ninh Bình đặc biệt là tục ngữ, ca dao đã là nhữngmạch nguồn trong mát nuôi dưỡng tâm hồn biết bao người con Ninh Bình để rồi“Ăn đâu, làm đâu” mọi người con Ninh Bình đều hướng về quê hương, nguồn cộivới tấm lòng thành kính, tri ân và khát vọng cống hiến xây dựng quê hương NinhBình ngày càng văn minh, giầu đẹp.Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ, ca dao Ninh Bình giúp chúng ta hiểu thêmvề diện mạo và đặc trưng của Văn học dân gian Ninh Bình nói chung và tục ngữ,ca dao Ninh Bình nói riêng. Ninh Bình, mảnh đất ngàn năm văn hiến mà ở đó mỗitên làng, tên xã, mỗi ngọn núi, dòng sông đều mang “bóng dáng ông cha”, mang“dáng hình xứ sở” được ghi lại qua những câu tục ngữ, ca dao để rồi trường tồncùng quê hương, đất nước.Đến với Ninh Bình hôm nay, chúng ta cảm nhận về một vùng quê đangtừng ngày thay đổi trong xu thế đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, có nhiều địa danhmới xuất hiện và không ít những địa danh cũ mất đi hoặc thay đổi tên gọi. Tìmhiểu những địa danh của Ninh Bình qua những câu tục ngữ, ca dao sẽ giúp chúngta bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa vô cùng quí báu của cha ông, để từ đóchúng ta thêm tự hào và thấy được trách nhiệm của mình trong việc quảng bá, gìngiữ kho tàng tục ngữ, ca dao Ninh Bình cho thế hệ mai sau.Từ những mong muốn trên, tôi chọn đề tài luận văn của mình là: “Tục ngữ,ca dao địa danh Ninh Bình”. Hy vọng rằng công trình là sự hệ thống những câutục ngữ, ca dao có nói tới những địa danh của tỉnh Ninh Bình với những tên gọi,sự tích đầy thú vị, gợi mở cho giáo viên và học sinh Ninh Bình trong quá trìnhtiếp nhận tục ngữ, ca dao địa phương (Ngữ văn lớp 7). Luận văn cũng là món quànhỏ mà người viết tri ân quê hương Ninh Bình yêu dấu.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu2.1.Việc sưu tầm và giới thiệu tục ngữ, ca dao nói chung đã được tiến hành từ lâu(thế kỷ XVIII). Đó là công trình Nam phong giải trào của Trần Danh Án, NgôHạo Phu, Trần Doãn Giác, soạn vào năm 1788 – 1789 đến nửa thế kỷ XIX; Tụcngữ, cổ ngữ gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1897; Việt Nam phongsử của Nguyễn Văn Mại, soạn năm 1914; Tục ngữ và cách ngôn của Hàn TháiDương, 1920; An Nam tục ngữ của Vũ Như Lâm và Nguyễn Đa Gia, 1933; Phonggiao, ca dao, phương ngôn, tục ngữ của Nguyễn Văn Chiểu, năm 1936; Ngạn ngữphong dao của nguyễn Can Mộng, 1941; Đặc biệt là công trình Tục ngữ phongdao của Nguyễn Văn Ngọc (Nhà xuất bản Vĩnh Hưng Long), 1928, đã có tới 6500 câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao, được sưu tầm và giới thiệu. Tuy nhiên côngtrình này chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu.Từ sau năm 1975 việc sưu tầm và giới thiệu tục ngữ, ca dao, dân ca đã cónhững thuận lợi hơn, thời kỳ này phải kể tới công trình của Vũ Ngọc Phan đó làcuốn Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, (Xuất bản lần đầu năm 1955 đến nay đãtái bản nhiều lần). Công trình là một tập hợp tương đối đầy đủ và hệ thống tụcngữ, ca dao, dân ca Việt Nam ở cả ba miền đất nước. Ở ấn phẩm này tác giả đãsưu tầm và giới thiệu được một số câu ca dao Ninh Bình về những địa danh nổitiếng như núi Phi Diên (núi Cánh Diều), cửa biển Thần Phù (nay thuộc xã YênLâm, Yên Mô)…Trong khoảng gần 30 năm trở lại đây các nhà nghiên cứu đã tập trungnghiên cứu tục ngữ, ca dao theo chuyên đề, đáng chú ý là các công trình nghiêncứu sau:– Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp của Nguyễn Thái Hòa, Nhà xuấtbản Khoa học xã hội, năm 1997…– Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam của Phan Thị Đào, Nhà xuất bảnThuận Hóa, năm 1999– Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu trúc củaTriều Nguyên, Nhà xuất bản Thuận Hóa, năm 2003
– Thi pháp ca dao, do Nguyễn Xuân Kính chủ biên, Nhà xuất bản Đại họcQuốc gia Hà Nội năm 20062.2. Giới thiệu về tục ngữ, ca dao Ninh Bình cho đến nay còn có ở trong các côngtrình của Ninh Bình: Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình, do Trương Đình Tưởngchủ biên, Nhà xuất bản Thế giới, năm 2004;Địa chí Ninh Bình, do Tỉnh ủy Ninh Bình – Viện khoa học xã hội ViệtNam chịu trách nhiệm nội dung, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, năm 2010;Chùa Dầu di tích lịch sử văn hóa, do Thích Minh Đức, Lã Đăng Bật chủbiên, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, năm 2008;Tục ngữ ca dao, dân ca Yên Mô, do Trần Đình Hồng chủ biên, Nhà xuấtbản vãn hóa thông tin, nãm 2012. Bên cạnh ðó còn có các tác giả: Đặng Hữu Vân,Phạm Thị Ánh Nguyệt, biên tập phần tục ngữ, ca dao giảng dạy trong chươngtrình ngữ văn địa phương trong các trường THCS tỉnh Ninh Bình.Tất cả những công trình trên là những tài liệu quí báu, định hướng cho tôi cóđược cái nhìn sâu sắc về địa danh Ninh Bình qua những câu tục ngữ, ca dao. Tuynhiên một số công trình nghiên cứu trên chỉ giới thiệu tục ngữ, ca dao Ninh Bình quadư địa chí, hoặc nghiên cứu tục ngữ, ca dao Ninh Bình trong dòng chảy của văn họcdân gian nói chung, hoặc nghiên cứu tục ngữ, ca dao của một huyện, một vùng, nênchưa có được cái nhìn thật khái quát, đầy đủ về tục ngữ, ca dao Ninh Bình đặc biệtlà những câu tục ngữ, ca dao gắn với các địa danh trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Từ lýdo đó tôi mạnh dạn chọn đề tài Tục ngữ, ca dao về địa danh Ninh Bình, nhằm nốidài những nghiên cứu về tục ngữ ca dao Ninh Bình đặc biệt là tìm hiểu những địadanh của tỉnh được nhắc tới trong tục ngữ, ca dao, những tên gọi, sự tích, ý nghĩa củamỗi địa danh đều có sức hấp dẫn riêng mà mỗi người con Ninh Bình nhất là thế hệtrẻ cần phải hiểu biết và gìn giữ.3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu3.1. Đối tượng nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu trong luận văn này là tục ngữ, ca dao về địa danhNinh Bình, trong đó tập trung làm rõ một số vấn đề sau:
7. Đóng góp của luận văn– Luận văn lần đầu tiên là một tập hợp những câu tục ngữ, những bài ca daovề địa danh Ninh Bình.– Luận văn lần đầu tiên đi sâu tìm hiểu nội dung phản ánh, giá trị và ý nghĩatên gọi của mỗi địa danh trong các câu tục ngữ, ca dao của Ninh Bình. Qua đógiúp chúng ta thấy được một phần diện mạo của văn hóa dân gian Ninh Bình, thấyđược vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi cảnh vật nơi đây, và đặc biệt là chúng ta cảm nhậnđược tâm hồn tình cảm của mỗi người con Ninh Bình đối với quê hương, đất nước.– Luận văn góp phần cung cấp tài liệu cho giáo viên và học sinh tỉnh NinhBình nói riêng và các địa phương khác nói chung trong các tiết Ngữ văn địaphương.
NỘI DUNG
Khí hậu: Ninh Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, chịu ảnhhưởng của khí hậu ven biển. Thời tiết trong năm chia làm hai mùa khá rõ: mùakhô từ tháng 11-12 năm trước đến tháng 4 năm sau; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng10. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt từ 1.860 – 1.950 mm nhưng phân bốkhông đều, tập trung 70% lượng mưa vào mùa hạ.Dân cư: Dân số Ninh Bình tính đến năm 2016 là 952 509 người, đại bộ phậndân cư Ninh Bình là dân tộc Kinh và có khoảng 20 000 người là đồng bào dân tộc ítngười, chủ yếu là dân tộc Mường sinh sống ở một số xã miền núi huyện Nho Quan.Có hai tôn giao chính: phật giáo và công giáo. Phật giáo chiếm khoảng 5,18% vàcông giáo chiếm 16,3% dân số (chủ yếu ở huyện Kim Sơn)Ninh Bình là nơi những dấu tích của con người tồn tại từ hàng vạn năm trởvề trước vẫn còn lưu lại; là cố đô Hoa Lư một thời sáng chói, như một minh chứngvề một vùng đất cổ “địa linh, nhân kiệt”. Truyền thống, hiện đại luôn hoà quyệnvới nhau để làm nên một Ninh Bình giàu bản sắc văn hoá, giàu truyền thống yêunước và cách mạng, là cội nguồn sức mạnh của người dân Ninh Bình trong khángchiến chống giặc ngoại xâm cũng như trong thời kỳ hội nhập và phát triển cùngđất nước.Về tài nguyên thiên nhiên, đây là mảnh đất có rất nhiều tiềm năng và thếmạnh, cụ thể:Đất đai: Ninh Bình có tổng diện tích đất tự nhiên là 139.011 ha. Trong đóđất cho sản xuất nông nghiệp là 61.959 ha (chiếm 44,57%). Các loại đất phù sađược bồi và phù sa không được bồi tạo điều kiện cho nuôi trồng thuỷ sản và câycông nghiệp; đất phù sa cũ chua, nghèo…thích hợp cho thâm canh lúa, hoa màu;đất feranit thích hợp phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp, cây dược liệu.Sinh vật: Ninh Bình có thảm thực vật rừng phong phú, tập trung ở vườnQuốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc Phương thuộc loại rừng mưa nhiệt đới điển hìnhvới cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng, phong phú về thành phần loài. Một số loàithực vật điển hình là Chò xanh, cây Lê, cây Chân chim…Động vật ở đây cũng
rất phong phú. Hiện đã phát hiện 233 loài động vật có xương sống, nhiều loàichim và 24 bộ côn trùng trong số 30 bộ côn trùng thường gặp ở nước ta.Tài nguyên khoáng sản: Ninh Bình có nhiều loại khoáng sản nhưng đángkể nhất là đá vôi với diện tích 1,2 vạn ha, trữ lượng hàng chục tỷ mét khối và hàngchục triệu tấn đôlômit, chất lượng tốt. Đây là nguồn nguyên liệu lớn cho sản xuấtvật liệu xây dựng. Ngoài ra, đất sét phân bố rải rác ở các vùng đồi núi thấp dùngđể sản xuất gạch ngói và là nguyên liệu cho ngành đúc. Than bùn có trữ lượng2triệu tấn/năm dùng để sản xuất phân vi sinh. Nước suối Kênh Gà, Nước khoángCúc Phương cũng là những nguồn lợi lớn trong việc chữa bệnh và phát triển dulịch…[57; 1,2; 12]1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hộiNhững lĩnh vực kinh tế lợi thế: Trong những năm tới, các ngành côngnghiệp sử dụng nguyên liệu tại chỗ như: Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,đặc biệt là xi măng, đá, gạch sẽ phát triển, trở thành khâu đột phá đưa nền kinh tếNinh Bình tăng tốc và ưu tiên hàng đầu cho ngành sản xuất xi măng.Phát triển đa dạng các ngành kinh tế thuỷ sản, trong đó nuôi thuỷ, hải sảnlà trọng tâm được coi là một khâu đột phá của ngành nông nghiệp và nền kinh tếcủa tỉnh.Với các khu du lịch và danh lam thắng cảnh nổi tiếng, đặc biệt là các khu:Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc – Bích Động, Bái Đính – Tràng An…là thế mạnh củatỉnh trong phát triển du lịch.Tiềm năng du lịch: Sự kì thú của thiên nhiên với những danh lam thắngcảnh đẹp, đa dạng như: Vườn Quốc gia Cúc Phương, khu hang động Tam CốcBích Động, khu Địch Lộng Vân Long, khu du lịch Tràng An – Bái Đính…cùngvới tài nguyên nhân văn như: Cố đô Hoa Lư, quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm,chùa Non Nước, phòng tuyến Tam Điệp- Biện Sơn…tạo điều kiện cho Ninh Bìnhphát triển những tuyến du lịch hấp dẫn, đưa tỉnh nhà trở thành địa bàn du lịch quantrọng của vùng đồng bằng Bắc bộ và cả nước.
Non nước Ninh Bình kỳ thú, nên thơ, lại nằm ở cửa ngõ đồng bằng Bắc bộvà dải lãnh thổ miền Trung, nên từ xa xưa là nơi gặp gỡ giao thoa của ba nền vănhoá lớn của đất nước. Nhân dân Ninh Bình vừa tiếp thu những nét tinh hoa vănhoá của các vùng, miền khác trong nước, tạo dựng nên sắc thái văn hoá NinhBình phong phú đa dạng lại có những nét đặc sắc riêng biệt.Nghiên cứu và tìm hiểu về văn hoá Ninh Bình, chúng ta nhận thấy: vùngđất này có nhiều điều hấp dẫn, thú vị. Nhiều phong tục, tập quán, truyền thống tốtđẹp của cộng đồng người Việt được con người Ninh Bình tiếp thu và sáng tạo.Mỗi ngọn núi, dòng sông, mỗi thôn xã, làng bản…đều âm vang những huyền tích,huyền thoại. Quá khứ, hiện tại, trí tưởng tượng của người lao động và hiện thựclịch sử đan xen vào nhau, tạo nên bản sử thi hùng tráng của dải đất cuối sông, đầunúi, dải đất đã được mệnh danh là “cổ họng”, là “yết hầu” của Bắc – Nam này.[57; 3; 13]1.2. Đời sống văn hóa, con người Ninh Bình1.2.1. Ninh Bình – nơi in đậm dấu ấn văn hoá của cư dân Việt cổDấu vết khảo cổ học: Ninh Bình là vùng đất có con người cư trú từ rất sớm.Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích có xương răng đười ươi và các độngvật trên cạn ở Núi Ba (Tam Điệp) thuộc sơ kỳ đồ đá cũ, cách ta khoảng ba mươivạn năm; ở Thung Lang (Tam Điệp) có niên đại cách ta khoảng ba mươi nghìnnăm; động ngưòi xưa (Cúc Phương) có di chỉ cư trú của con người thời văn hoáHoà Bình cách ta khoảng 7.580 + 100 năm. Di chỉ của con người văn hoá HoàBình còn tìm thấy ở một số hang động ở Tam Điệp, Nho Quan. Sau thời kỳ vănhoá Hoà Bình, các nhà khảo cổ cho rằng, vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá,Ninh Bình là nơi định cư của con ngưòi thời đại đồ đá mới Việt Nam. Di chỉ ĐồngVườn (Yên Thành, Yên Mô) đã được định niên đại muộn hơn di chỉ Gò Trũng (dichỉ Gò Trũng có niên đại C14: 4700 + 50 năm cách ngày nay). Cư dân cổ di chỉĐồng Vườn đã phát triển lên cư dân cổ di chỉ Mán Bạc (Yên Thành, Yên Mô) ởgiai đoạn văn hoá đồ đồng từ cuối Phùng Nguyên đến đầu Đồng Đậu, cách đây3.300 – 3700 năm.
1.2.2. Ninh Bình – ” văn hoá mới” của cư dân ven biểnNinh Bình là một trong những tỉnh điển hình về sự mở rộng không gianvăn hoá Việt xuống biển Đông. Trong quá trình kiến tạo địa chất, biển lùi dần tạora đồng bằng vùng hạ lưu sông Đáy. Con người tiến dần ra chiếm lĩnh vùng đồngbằng ven biển và tạo ra những trung tâm văn hóa như Hoa Lư, sau là kinh đô củacả nước trong 42 năm (968-1010). Vùng ven sông Vân sau là trung tâm của đạo,trấn, rồi tỉnh Ninh Bình. Dấu ấn về biển còn in đậm trên đất Ninh Bình. Nhữngđịa danh: cửa biển Phúc Thành (thành phố Ninh Bình), cửa biển Đại An (nay làngã ba Độc Bộ), nơi tiếp giáp giữa yên Khánh và Nghĩa Hưng (Nam Định), cửabiển Con Mèo (Yên Thành, Yên Mô), cửa Biển Thần Phù (Yên Lâm, Yên Mô)làm cho chúng ta có cảm tưởng một thời biển còn ở đâu đây. Cùng với các địadanh về các cửa biển là các con đê lịch sử như đê Hồng Đức (1471), đê Hồng Lĩnh(1773) do Nguyễn Nghiễm – thân phụ Nguyễn Du đắp, đê Đường Quan(1830), đêHồng Ân (1899), đê Hoàng Trực (1927), đê Văn Hải (1933-1934), đê Bình MinhI (1959-1960), đê Bình Minh II (1981). Cho đến nay, Ninh Bình vẫn tiến ra biểnmỗi năm gần 100m. Như vậy, từ ngàn xưa, ngưòi dân Ninh Bình đã hướng rabiển, khát vọng chinh phục biển, đón nhận các luồng dân cư, các yếu tố văn hoátừ Bắc vào Nam, từ biển vào. Kinh tế biển còn in đậm các di chỉ văn hoá thời kỳđồ đồng. Cho đến nay, kinh tế biển còn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tếcủa tỉnh. Khai thác kinh tế biển như nghề đánh bắt cá biển, nuôi tôm sú, tôm rảo,nuôi cua…vẫn là hướng phát triển quan trọng. Cùng với phát triển kinh tế tỉnhNinh Bình cũng rất chú trọng đến công tác đảm bảo an ninh quốc phòng cũng nhưmôi trường sinh thái biển để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của nền kinh tếquan trọng này.1.2 3. Hệ thống di tích văn hoá, lịch sử và những danh lam thắng cảnh nổi tiếngcủa Ninh BìnhTrước khi đi sâu tìm hiểu giới thiệu về tục ngữ, ca dao địa danh Ninh Bìnhchúng tôi muốn giới thiệu về hệ thống di tích lịch sử văn hóa những danh lam
thắng cảnh nổi tiếng của Ninh Bình để độc giả hình dung ra một Ninh Bình “Địalinh nhân kiệt”.Ninh Bình cùng với Hạ Long là 2 đỉnh cạnh đáy của tam giác châu thổ sôngHồng với địa hình Karst được các biến đổi địa chất theo thời gian và phù sa bồiđắp tạo cho Ninh Bình một “Hạ Long trên cạn” với vô số các hang động, đầm hồngập nước có giá trị phát triển du lịch. Ninh Bình, vùng đất “địa linh” là nơi chứanhững vật báu của trời”(Nguyễn Tử Mẫn), nơi hội tụ đầy đủ các yếu tố của mộtViệt Nam thu nhỏ: có rừng, núi, sông, với các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốcgia, khu dự trữ sinh quyển thế giới, khu du lịch quốc gia…Nói đến Ninh Bình là nói đến một mảnh đất có mật độ dày đặc các di tíchvăn hoá – lịch sử. Theo thống kê, Ninh Bình có 795 di tích lịch sử, văn hoá với225 ngôi chùa, 242 đình làng…Ngoài ra còn có 280 nhà thờ, trong đó có 73 nhàthờ giáo xứ, 207 nhà thờ họ.1.2.3.1. Những di tích lịch sử, văn hoáNinh Bình có khu di tích lịch sử văn hoá cố đô Hoa Lư được công nhận làdi tích đặc biệt quan trọng cấp quốc gia, với 47 di tích trong đó nổi bật là: Đềnthờ vua Đinh Tiên Hoàng, lăng mộ vua Đinh; đền thờ và lăng mộ vua Lê ĐạiHành; nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ; đền thờ công chúa Phất Kim; miếuthờ công chúa Phù Dung; đền Trần Quý Minh; phủ Khổng; phủ Đột; động HoaSơn; động Hoa Lư; núi Mã Tiên; bia Cầu Dền; sông Sào Khê; đền Vực Vông…Khu văn hoá tâm linh núi chùa Bái Đính với chùa Bái Đính cổ (có đền thánhNguyễn Minh Không, các hang động thờ Mẫu, thờ Phật, thờ thần Núi…) và khuchùa Bái Đính mới với 5 toà lớn dọc theo sườn núi. Bảo tháp với chiều cao 100m, 13 tầng, có thang máy và 72 bậc leo, là nơi trưng bày xá lợi Phật từ Ấn Độcũng là một điểm nhấn của khu du lịch tâm linh này.Quần thể nhà thờ Phát Diệm là kỳ quan Thiên chúa giáo, một công trìnhkiến trúc có một không hai ở Việt Nam. Các công trình kiến trúc nguy nga, tránglệ nhưng hài hoà giữa truyền thống và hiện đại bao gồm: Ao hồ, Phương Đình,nhà thờ lớn và 4 nhà thờ ở 2 bên, 3 hang đá nhân tạo. Nhà thờ đá Phát Diệm được
thiết kế độc đáo, thể hiện sự giao hòa giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo, cũng lànét kết hợp văn hóa Đông – Tây đậm nét nhất.Các di tích văn hoá khác như phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn; đồn GiánKhẩu; các đền thờ: Trương Hán Siêu, Nguyễn Công Trứ, Triệu Quang Phục, LýQuốc Sư, đền Thái Vi, cửa Thần Phù, Cố Viên Lầu…Các di tích tâm linh Nho giáo: Chùa Bích Động, chùa Nhất Trụ, chùa ĐồngĐắc, chùa Địch Lộng, chùa Bàn Long, chùa Bái Đính, chùa Non Nước…Các di tích lịch sử, cách mạng: Khu căn cứ cách mạng Quỳnh Lưu, núi NonNước, di tích chiến dịch Hà Nam Ninh…1.2.3.2. Những danh lam thắng cảnh nổi tiếngKhu du lịch vườn Quốc gia Cúc Phương với các loại hình: sinh thái, môitrường, nghiên cứu khoa học, đa dạng sinh học, khảo cổ học, đêm lửa trại và tìmhiểu văn hoá Mường…Khu du lịch Tam Cốc- Bích động với nhiều tuyến du thuyền trên sông vớicác điểm hang động, di tích lịch sử.Khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long với các loại hình du lịch trên đầm sinhthái cảnh quan ngập nước.Khu dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng với du lịch sinh thái đồng quêvà cảnh quan ven biển.Các ngọn núi và các hang động đẹp như: núi Ngọc Mỹ Nhân, núi Non Nước(núi Thuý), núi Kỳ Lân, động Địch Lộng, động Vân Trình, động Mã Tiên, độngBích Động, động Tam Giao, động Thiên Tôn, động Tiên, động Sinh Dược lànhững điểm hấp dẫn khách du lịch với thời gian tham quan ngắn.Các hồ nước tự nhiên: Hồ Kỳ Lân, hồ Đồng Chương, Hồ Yên Quang phùhợp với loại hình du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần; hồ Yên Thắng, hồ Đồng thái còncó thêm loại hình du lịch thể thao.Các di tích lịch sử- văn hoá và những danh lam thắng cảnh nổi tiếng trênchính là món quà của thiên nhiên ban tặng cho mảnh đất này. Các di tích văn hóahữu thể và phi vật thể ấy đã làm nên nét đặc sắc văn hoá Ninh Bình.
Ninh Bình còn là vùng đất có vị trí chiến lược trong suốt hàng ngàn nămdựng nước, giữ nước của dân tộc. Các cuộc hành quân thần tốc vào Nam hay raBắc vẫn âm vang trên mặt đất này. Đây còn là vùng đất rút lui chiến lược để vàoThanh Hoá của tướng Đô Dương (thời Hai Bà Trưng). Đất phát tích của Đinh BộLĩnh, là kinh đô của cả nước trong suốt 42 năm. Đất Ninh Bình ken dày vết chânlịch sử. Kinh đô Hoa Lư với ngót nửa thế kỷ của hai vương triều Đinh – Lê dựngnền độc lập chính thống. Nơi hoạch định kế sách và phát xuất các đạo hùng binhnăm 981 – 982 phá Tống, bình Chiêm. Lê Đại Hành đã kiến tạo võ công oanh liệttrong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Hoa Lư cũng là nơi khai sinhra vương triều Lý với áng văn “Chiếu dời đô” lịch sử.Một yếu tố khác vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ làm nên diệnmạo đa dạng, phong phú của văn hoá Ninh Bình, đó là sự lưu lại dấu vết văn hoácủa các “tao nhân mặc khách” khi qua vùng sơn thanh, thuỷ tú này. Bao đế vương,công hầu, khanh tướng danh nhân văn hoá lớn về đây, xếp gương, đề bút, sôngnúi hoá thành thi ca! Chỉ nói riêng núi Thuý đã có trên 30 bài thơ, văn khắc vàovà còn đến hàng trăm bài thơ vịnh cảnh của các danh nhân qua các triều đại: TrầnAnh Tông, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,Phạm Huy ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Cao Bá Quát, Nguyễn khuyến, PhạmVăn Nghị…Nhân cách bác học và phẩm cách văn hoá lớn của các danh nhân đóđã thấm đẫm vào tầng văn hoá địa phương, được nhân dân tiếp thu, sáng tạo làmgiàu thêm sắc thái văn hoá Ninh Bình.Đất Ninh Bình không chỉ là “địa linh” mà còn là nơi “nhân kiệt”. Biết baodanh nhân, danh tướng, danh sỹ sinh ra trên mảnh đất này! Khí thiêng sông núiquê hương đã hun đúc nên họ. Thời nào Ninh Bình cũng có những nhân tài như:anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh, các danh tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, TrịnhTú, Lưu Cơ, hoàng hậu Dương Vân Nga, Quốc sư Nguyễn Minh Không, nhà thơTrương Hán Siêu, bảng nhãn Vũ Duy Thanh, tiến sĩ Ninh Tốn, nhà văn hóa VũPhạm Khải, Phạm Thận Duật…Có thể nói, yếu tố “địa linh”,”nhân kiệt”là nhân
tố quan trọng và chủ yếu nhất làm nên gương mặt lịch sử – văn hoá Ninh Bìnhqua các thời đại.1.3. Khái niệm Tục ngữ, Ca dao, Địa danh1.3.1. Khái niệm về tục ngữTục ngữ là một thể loại văn học dân gian hình thành, phát triển và tồn tạitrong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân.Về nội dung: Tục ngữ thường phản ánh những kinh nghiệm về lao độngsản xuất, ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội, hoặc thể hiện triết lý dân giancủa nhân dân. Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sảnxuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác, theo nhà văn hóaVũ Ngọc Phan trong cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” (Xuất bản lần đầunăm 1955 đến nay đã tái bản nhiều lần) thì ” Tục ngữ là một câu tự nó đã diến đạttrọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, một công lý, có khinó là một sự phê phán”[01; 37; 08TLTK]. Như vậy có thể thấy tục ngữ mang tínhtrí tuệ cao, bởi nó đúc rút những kinh nghiệm, những điều quan sát được trong tựnhiên, xã hội, con người, những tri thức từ thực tiễn lao động sản xuất. Được ứngdụng và kiểm nghiệm nên tục ngữ rất gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày củanhân dân.Về hình thức: Tục ngữ là những câu nói hoàn chỉnh, được diễn đạt bằngngôn từ ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Có thể coi tục ngữlà văn học nói dân gian nên thường được nhân dân vận dụng trong đời sống sinhhoạt, giao tiếp cộng đồng và xã hội hay hẹp hơn như lời ăn tiếng nói và khuyênrăn. Theo Nguyễn Thị Bích Hà trong cuốn Giáo trình văn học dân gian ViệtNam, cũng đã đưa ra nhận xét “Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn cóvần, có nhịp, có hình ảnh” [02; 16; 16TLTK]. Như vậy có thể thấy tục ngữ lànhững câu hoàn chỉnh, có vần, dễ nhớ, dễ thuộc, đặc điểm này giúp chúng ta dễdàng phân biệt tục ngữ với thành ngữ. Bởi cũng theo tác giả Vũ Ngọc Phan trongcuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” “Về hình thức ngữ pháp mỗi thành ngữchỉ là một nhóm từ, chưa phải một câu hoàn chỉnh” “[03; 37; 08TLTK]. Từ những
đặc điểm trên chúng ta có thể thấy tục ngữ là một thể loại văn học dân gian rất dễnhớ, dễ vận dụng, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân,Giữa hình thức và nội dung tục ngữ cũng có sự gắn bó chặt chẽ, một câutục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúckết, khái quát hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hìnhtượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp sosánh, nhân hóa, ẩn dụ…Đa số tục ngữ đều có vần, gồm 2 loại: vần liền và vần cách. Các kiểu ngắtnhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơca… Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc vững chắc cho tụcngữ. Hình thức đối: đối thanh, đối ý. Tục ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán,nhưng cũng có thể có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán. Các kiểu suy luận:liên hệ tương đồng, liên hệ không tương đồng, liên hệ tương phản, đối lập, liên hệphụ thuộc hoặc liên hệ nhân quả.1.3.2. Khái niệm ca daoNếu như tục ngữ là một thể loại văn học dân gian ra đời trước ca dao, thiênvề tổng kết những kinh nghiệm về tự nhiên, xã hội thì ca dao lại thiên về đời sốngtình cảm của con người. Như vậy có thể thấy ca dao ra đời khi đời sống xã hộicủa con người đã phức tạp hơn. Không chỉ biểu hiện đời sống vật chất, đời sốngtình cảm ca dao còn thể hiện ý thức của con người trong lao động sản xuất, cải tạothiên nhiên, kinh tế xã hội và tinh thần đấu tranh chống lại áp bức, cường quyền,những thói hư tật xấu trong xã hội…Về cơ bản ca dao thể hiện mối quan hệ giữacon người với con người trong xã hội, mối quan hệ giữa con người với tựnhiên…nên ca dao bao giờ cũng thể hiện cái nhìn chủ quan của con người với thếgiới khách quan, đó là cái tôi trữ tình mà chúng ta rất dễ nhận ra qua những sángtác dân gian này.Là thể loại văn học dân gian tồn tại bằng phương thức truyền miệng ca daođã được nhiều thế hệ lưu truyền với những dị bản khác nhau. Tuy nhiên ca daovẫn giữ được nét mộc mạc, giản dị trong cách thể hiện. Chúng ta có thể bắt gặp
Quán cháo -Tam Điệp (đền Quán Cháo gắn liền với sự tích tiên nữ dâng cháo choquân lính Tây Sơn trước giờ xung trận), Cầu Lim- cầu bắc qua sông Vân ở trungtâm thành phố Ninh Bình (chuyện kể khi xưa cầu được bắc bằng gỗ lim, tên gọinày còn mãi đến nay)…1.4. Văn học dân gian Ninh Bình và tục ngữ, ca dao Ninh Bình1.4.1. Khái quát về văn học dân gian Ninh Bình1.4.1.1. Thể loại tự sựThần thoạiThần thoại Ninh Bình tập hợp những chuyện kể dân gian về các vị thần,các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, sư tổ của nghề; phản ánhquan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người…Thần thoại Ninh Bình bị truyền thuyết hóa, biến tướng trong phật thoại, tiênthoại, truyện cố tích…Thần thoại tiêu biểu và phổ biến nhất ở Ninh Bình là thần thoại về ôngKhổng Lồ (Nguyễn Minh Không 1066 – 1141)Truyền thuyếtTruyền thuyết Ninh Bình kể lại tích các nhân vật lịch sử, giải thích cácnguồn gốc, các phong vật địa phương theo quan niệm, tưởng tượng của người dân.Truyền thuyết dân gian Ninh Bình mang dấu ấn về vùng đất và con ngườiNinh Bình.Truyện truyền thuyết Ninh Bình ghi đậm công tích của người Ninh Bìnhtrong việc khai khẩn đất hoang, lập làng, lập ấp… và đặc biệt là truyền thuyết vềcác vị vua.Cổ tíchTruyện cổ tích Ninh Bình phản ánh những xung đột, mâu thuẫn trong giađình và xã hội.Truyện cổ tích Ninh Bình thể hiện ước mơ về một cuộc sống ấm no, hạnhphúc của nhân dân.
Truyện cổ tích Ninh Bình phản ánh triết lý sống, đạo lý làm người và ướcmơ công lý của nhân dân.Truyện cườiTruyện cười Ninh Bình là hình thức giải trí, đem lại tiếng cười vui trongcuộc sống thường ngày.Phê phán những thói hư, tật xấu của con người, lên án các ác, đả kích giaicấp thống trị trong xã hội phong kiến.Truyện thơTruyện thơ Ninh Bình mang tính tự sự kể về một sự kiện, một hiện tượngxã hội như Ký sự nhật trình, Kim Sơn sự tích Doanh điền ca…Truyện thơ viết về đề tài lịch sử, danh nhân văn hóa, nhân vật lịch sử:Truyện Đinh Tiên Hoàng diễn ca, Thánh Nguyễn…1.4.1.2. Thể loại trữ tình và luận lýCa dao, dân ca: Ca dao, dân ca Ninh Bình giản dị, chất phác như đất vàngười Ninh Bình, phản ánh đời sống, tình cảm, tâm hồn của người dân Ninh Bình.Tục ngữ: có tính chất đúc kết kinh nghiệm về con người, về lao động sảnxuất, đấu tranh xã hội, thiên nhiên, về những sản vật của địa phương Ninh Bình.1.4.1.3. Khái quát về đặc trưng, đặc điểm của văn học dân gian Ninh BìnhLà một bộ phận không thể tách rời của văn học dân tộc, văn học dân gianNinh Bình cũng có đầy đủ những đặc điểm chung của văn học dân gian. Tuy nhiênđược ra đời và phát triển gắn liền với những sinh hoạt văn hóa làng xã của cư dânnông nghiệp với đa dạng địa hình nên văn học dân gian Ninh Bình cũng mangmàu sắc địa phương khá rõ nét đó là:* Tính đa dân tộc của văn học dân gian Ninh BìnhNinh Bình có hai dân tộc chính là người Kinh và người Mường. Tộc ngườiMường sinh sống chủ yếu ở một số xã vùng núi huyện Nho Quan như: ThạchBình, Xích Thổ, Yên Quang, Văn Phương, Phú Long, Kỳ Phú, Cúc Phương,Quảng Lạc…Tộc người Kinh chiếm đa phần, phân bố ở các huyện, thành phố cònlại trong tỉnh. Chính vì vậy văn học của người Kinh chiếm số lượng lớn với nhiều