Top 6 # Xem Nhiều Nhất Ca Dao Tục Ngữ Kính Già Yêu Trẻ Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Altimofoundation.com

Người Già Trong Thành Ngữ Tục Ngữ Ca Dao Việt Nam

(Ngày ngày viết chữ) Bài viết này nói về những quan niệm của người Việt đối với người già, tuổi già thể hiện qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao.

Già là túi khôn, là vốn quý

Người già có nhiều kinh nghiệm, họ trải qua nhiều nỗi thăng trầm, nhìn thấu mọi lẽ thường lẫn bất thường của xã hội:

Bà già đeo bị hạt tiêu, Sống bao nhiêu tuổi nhiều điều đắng cay.

Cho nên, từ lâu, người Việt đã xem người già là túi khôn, là vốn quý. Thành ngữ “Kẻ cắp gặp bà già” chính là để nói sự lõi đời của người cao tuổi. Người Việt thường cảm thán (xen chút ngưỡng mộ) rằng “Gừng càng già càng cay” và không quên dặn “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”.

Nói về mối quan hệ giữa người trẻ với người già, người Việt còn có câu “Khôn đâu tới trẻ, khỏe đâu tới già”, để thấy rằng trẻ và già nên nương tựa nhau, bổ sung cho nhau. Một gia đình có già có trẻ, người trẻ được bảo ban, người già được chăm sóc, đó chính là phúc. Cho nên người Việt xưa rất thích những gia đình tam đại đồng đường, tứ đại đồng đường. Sự tháo vát của người già còn thể hiện ở câu “Một mẹ già bằng ba con ở”.

Lại nói, dù dân gian có nhiều câu nói thể hiện chuyện cha mẹ già khó khăn, làm duyên con bẽ bàng, nhưng đồng thời cũng có những câu như:

Canh suông  khéo nấu thì ngon, Mẹ già khéo nói  thì con đắt chồng.

để biểu đạt vai trò quan trọng của bậc sinh thành khi vun vén duyên con.

Hiếu đễ với người già

Nhìn chung, người Việt kính trọng người già. Câu tục ngữ “Yêu trẻ trẻ đến nhà, kính già già để tuổi cho” hầu như không người Việt nào không biết. Trong gia đình, chuyện hiếu kính với cha mẹ cực kỳ quan trọng. Và những câu ca dao nhắc nhau hiếu thuận với cha mẹ già thực sự rất nhiều.

Mẹ già hai đứa nuôi chung, Đứa lo cơm cháo, đứa giùm thuốc thang.

Mẹ già đầu bạc như tơ, Lưng đau con đỡ, mắt lờ con nuôi.

Đèo mô cao bằng đèo Cây Cốc? Dốc mô ngược bằng dốc Mỹ Cang? Một tiếng anh than hai hàng lệ nhỏ, Em có mẹ già biết bỏ cho ai.

Mẹ già như chuối ba hương, Như xôi nếp mật, như đường mía lau. Đường mía lau càng lâu càng ngát, Xôi nếp mật ngào ngạt hương say. Ba hương lây lất tháng ngày, Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi. Mẹ già như áng mây trôi, Như sương trên cỏ, như lời hát ru. Lời hát ru vi vu trong gió, Sương trên cỏ khó vỡ dễ tan. Mây trôi lãng đãng trên ngàn, Gió đưa tan, hợp, hợp, tan, nao lòng.

Trời mưa cho ướt lá dừa, Cho tươi luống cải cho vừa lòng em. Cho em hái đọt rau dền, Nấu tô canh ngọt dâng lên mẹ già.

Con cá đối  nằm trên cối đá, Chim đa đa  đậu nhánh đa đa, Chồng gần không lấy, bậu  lấy chồng xa. Mai sau cha yếu mẹ già, Chén cơm đôi đũa, bộ kỷ trà  ai dưng ?

Sợ tuổi già

Mặc dù xem người già là túi khôn, là đáng kính trọng, nhưng người Việt (và lẽ nhiều dân tộc khác trên thế giới) cũng rất sợ tuổi già. Bởi “Trẻ khôn ra, già lú lại”, ai mong già làm gì.

Lý do một cô gái thôi chờ đợi một chàng trai thường là:

Một năm một tuổi một già, Ba năm một tuổi chi mà đợi anh.

“Cái tuổi nó đuổi xuân đi”, nên các cô gái thường mang tâm lý:

Ai ơi, trẻ mãi ru  mà, Càng đo đắn  mãi càng già mất duyên.

Mướp  già thì mướp có xơ, Gái già thì gái nằm trơ một mình.

Cau già lỡ lứa bán trăm, Chị nọ lỡ lứa biết nằm cùng ai?

Thành ngữ “Già kén kẹn hom” cũng dùng để nói chớ có kén chọn mà lỡ duyên thế này. Kén của con tằm nếu để quá lâu sẽ dính chặt vào hom (những búi rơm, rạ hoặc cây rang, cây bổi…), khó gỡ ra. Ở đây chơi chữ  “kén” trong ‘kén tằm’ đồng âm với “kén’ trong “kén chọn”. Ý của thành ngữ này là nếu quá kén chọn sẽ dễ dẫn đến quá lứa, lỡ thì.

Trường hợp lứa đã quá, thì đã lỡ, có cô than:

Cau già dao bén thì ngon, Người già trang điểm phấn son cũng già.

Thế nhưng cũng có cô rất lạc quan:

Cau già khéo bổ thì non, Nạ dòng  trang điểm lại giòn  hơn xưa.

Gà già khéo ướp lại tơ, Nạ dòng trang điểm, gái tơ mất chồng.

Còn như khi không thể để bản thân lỡ thì mà lo bến đỗ trước, và rồi phải từ chối chàng trai từng ước hẹn, các cô cũng rằng:

Anh về kiếm vợ kẻo già, Kiếm con kẻo muộn, em đà  có đôi.

Trong cuộc sống, người ta thường dặn nhau lúc còn trẻ khỏe phải biệt lo liệu, đừng để đến già kẻo mà:

Mỗi năm, mỗi tuổi, mỗi già, Chẳng lo liệu trước ắt là lụy  sau.

Tre già nhiều người chuộng, Người già ai chuộng làm chi.

Thế nhưng, cũng vì sợ tuổi già đến, chưa kịp chơi cho thỏa đã không còn sức, nên mới có câu:

Ai ơi chơi lấy kẻo già, Măng  mọc có lứa người ta có thì. Chơi xuân kẻo hết xuân đi, Cái già xồng xộc nó thì theo sau.

Và tâm lý muốn lớn nhanh để chơi ai cũng có, nhưng lại sợ:

Muốn cho mau lớn mà chơi, Mới lớn vừa rồi, già lại theo sau.

Duyên nợ với người già

Mặc dù người Việt có câu:

Chồng già vợ trẻ là tiên, Vợ già chồng trẻ là duyên ba đời.

nhưng nhìn chung người Việt thường muốn sánh duyên cùng người có tuổi tác tương xứng.

Ông già tôi chẳng lấy ông đâu, Ông đừng cạo mặt nhổ râu tốn tiền.

Sở dĩ không muốn lấy chồng già là vì:

Con gái lấy phải chồng già, Cầm bằng con lợn cọp tha vào rừng.

rồi bị xóm giềng cười nhạo:

Nhà bà có ngọn mía mưng, Có cô gái út mà ưng ông già.

Chuyện cười nhạo đôi khi thái quá, khiến các cô phải ném hết thẹn thùng mà phản bác:

Tiếng đồn em lấy chồng già, Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng ? – Tre già còn dẻo hơn măng, Ớt cà ra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ.

Nhưng không muốn lấy chồng già chủ yếu là do những chuyện trái khoáy khác:

Vô duyên lấy phải chồng già, Ra đường bạn hỏi rằng cha hay chồng? Nói ra đau đớn trong lòng, Chính thực là chồng có phải cha đâu. Ngày ngày vác cối giã trầu, Tay thời rót nước, tay hầu cái tăm. Đêm đêm đưa lão đi nằm, Thiếp đặt lão xuống, lão nằm trơ trơ. Hỡi ông lão ơi! Ông trở dậy cho thiếp tôi nhờ, Để thiếp tôi kiếm chút con thơ bế bồng. Nữa mai người có thiếp không, Xấu hổ với chúng bạn, cực lòng mẹ cha.

Gà tơ xào với mướp già, Vợ hai mươi mốt chồng đà sáu mươi. Ra đường, chị giễu  em cười, Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng. Đêm nằm tưởng cái gối bông, Giật mình gối phải râu chồng nằm bên. Sụt sùi tủi phận hờn duyên, Oán cha trách mẹ tham tiền bán con.

Ngược lại, các ông cũng không ham gì vợ già:

Vô duyên lấy phải vợ già, Ăn cơm phải đút, xin bà nuốt nhanh. Vô phúc lấy phải trẻ ranh, Vừa chơi, vừa phá tung hoành tứ tung.

Thế nhưng, nếu đã vào thế lấy vợ già, các ông cũng cố mà tìm ra điểm tốt:

Canh bầu  nấu với cá trê, Ăn vô cho mát mà mê vợ già.

Có phúc lấy được vợ già, Sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh. Vô phúc lấy phải trẻ ranh, Nó ăn nó bỏ tan tành nó đi.

hòng giữ cho gia đạo bình an. Đó có lẽ cũng là một biểu hiện của tinh thần luôn cố gắng lạc quan thường thấy ở người Việt.

Nếu các cô không ham chồng già thì ngược lại, các ông già cũng không ham gì vợ trẻ, bởi:

Người già mà lấy vợ tơ, Như liều thuốc độc để hờ bên thân.

Con gái mà lấy chồng già, Đêm nằm thỏ thẻ đẻ ra con chồn.

Thế nhưng, cũng có khi, ông già thương thật, nên khi bị người mình để bụng thương chê, các cụ liền nói đạo lý:

– Ông già tui chẳng ưa đâu, Hàm răng ông rụng, chòm râu ông dài. – Con tôm con tép còn râu, Huống chi  em bậu  câu mâu  sự đời. Thương nhau vừa dặm vừa dài, Cắn rứt chi đó mà đòi hàm răng?

Có khi, các cụ vội vã phân bua, thể hiện:

Già thì già tóc già râu, Đêm ba bảy vợ, già đâu có già!

Càng già càng dẻo càng dai, Càng gãy chân chõng , càng sai chân giường.

Cười nhạo người già

Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, có kính trọng, nể vì thì cũng có chế giễu, nhạo báng. Có khi người ta cất lời chê già khó tính:

Ai làm cho chuối không cành, Cho anh không vợ cắn quanh mẹ già. Mẹ già như mẹ người ta, Thì anh có vợ trong nhà đã lâu. Mẹ anh ác nghiệt cơ cầu, Cho nên anh chịu âu sầu đến nay.

Hoặc càm ràm mấy câu như “Già sinh tật, đất sinh cỏ’, hay “Trẻ đeo hoa, già đeo tật”. Cũng có khi dân gian lên tiếng đánh thẳng vào những thói hư tật xấu, thường là chê trách cái nết không chuyên chính:

Bà già đã tám mươi tư, Ngồi bên cửa sổ đưa thư kén chồng.

Bà già tuổi tám mươi hai, Ngồi trong quan tài hát ghẹo ông sư.

Bà già đi chợ Cầu Đông, Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng? Thầy bói gieo quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn!

Ấy vậy mà, đâu đó vẫn có thể bắt gặp những câu ca dao nửa chê trách, nửa cảm thông:

Già thì bế cháu ẵm  con, Già đâu lại muốn cau non trái mùa. – Già thì lễ Phật đi chùa, Cau non trái mùa ai cũng muốn ăn.

“Cau non trái mùa ai cũng muốn ăn” vừa là lời chống chế của người già, vừa là lời bênh vực của dân gian dành cho người già. Rằng thói đó âu cũng là lẽ thường.

Về cánh các ông già, các nết không đứng đắn cũng không thoát được con mắt tinh tường và cái miệng thẳng thừng của dân gian:

Ông già bạc phếu râu tôm Thấy dâu quét bếp còn lườm mắt dê

Ông già ông đội nón cời, Ông ve  con nít ông Trời đánh ông.

Điểm qua một vài thành ngữ, tục ngữ, ca dao như thế, mới thấy cái nhìn của dân gian đối với người già, tuổi già vô cùng đa diện, đặc sắc, có khen có chê, có nể có khinh. Điều đó không chỉ cho thấy thái độ của dân gian mà còn biểu hiện khả năng dùng từ, đặt câu biến hóa, lời lẽ khi khen, khi yêu thì chân thành, cảm động, khi chê, khi ghét thì chua chát, sâu cay.

Mái Tóc Trong Tục Ngữ, Ca Dao Việt Nguyễn Xuân Kính Viện Nghiên Cứu Văn Hoá

Bốn cô anh lạ cả bốn biết là quen ai?

Anh chỉ quen một cô da trắng tóc dài

Miệng cười như cánh hoa nhài nở nang.

(B11, B là vần chữ cái, 11 là số thứ tự)

+ Chân mày vòng nguyệt có duyên

Tóc mây dợn sóng đẹp duyên tơ hồng.

Nắm đuôi giật lại hỏi nhà chị đâu.

Ở sau đám bắp, đầu cầu ngó qua.

Tóc dài, tóc xanh, tóc mây gợn sóng, tóc đuôi gà, tốt tóc xanh non là mái tóc đẹp của người phụ nữ xưa. Mái tóc đẹp ấy được chăm sóc kĩ càng:

+ Mài dừa đạp cám cho nhanh

Ép dầu mà chải tóc anh tóc nàng

Mài dừa dưới ánh trăng vàng

Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh.

Miệng em cười có ý anh thương.

Tục ngữ rất ít khi nói về vẻ đẹp của mái tóc người phụ nữ, nhưng đã truyền lại kinh nghiệm chăm sóc tóc: ” Tốt tóc gội cỏ mần trầu, sạch đầu thì gội lá sả “. Mần trầu là thứ cỏ có hoa mọc thành bông gồm năm, bảy nhánh dài mọc tỏa tròn đều ở đầu cuống chung; sả là thứ cây cùng họ với lúa, mọc thành bụi, lá dài, hẹp và thơm. Muốn tóc tốt thì gội bằng nước đun với cỏ mần trầu, muốn đầu thơm sạch thì dùng nước đun với lá sả.

Nói chung, tóc của phụ nữ thường dài hơn tóc nam giới. Mái tóc của cô thanh nữ đã làm biết bao chàng trai ngơ ngẩn:

Tóc đến lưng vừa chừng em bối (búi)

Trong các nước ở khu vực văn hoá Đông Á, thời phong kiến, con trai 20 tuổi, con gái 15 tuổi mới kết tóc để đội mũ hoặc để cài trâm. Lúc kết tóc ấy là vào tuổi lấy vợ lấy chồng. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du (1765 – 1820) viết:

Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời.

Trong thơ ca dân gian, hơn một lần người bình dân sử dụng điển “kết tóc”:

+ Anh đố em đếm hết sao trời

Đây anh kết tóc ở đời với em

Trên trời biết mấy muôn sao

Biết dạ anh ở thế nào mà mong.

+ Bao giờ sum hiệp trước (trúc) mai

Lòng nguyền kết tóc lâu dài trăm năm.

Khi xưa, lúc thề non hẹn biển, các đôi trai gái thường cắt tóc thề bồi hoặc trao cho nhau làm kỷ vật:

Lời thề nước biếc non xanh

Nhện giăng sóng dợn sao đành bỏ nhau.

+ Đã thương cắt tóc trao tay

Tha hồ én liệng nhàn (nhạn) bay mái ngoài.

Mái tóc cũng là một nội dung trong các cuộc hát đối đáp nam nữ có tính chất đùa vui:

Đàn ông tốt tóc những mang nặng đầu.

Đàn bà tốt tóc nằm liền với ma.

Người khôn xem lấy đôi hàng tóc mai.

Quăn quăn tóc trước là người hay ghen.

Em đi khắp bốn phương trời

Chẳng đâu lịch sự bằng người ở đây

Răng đen rưng rức tóc mây rườm rà.

Câu này trong dân ca quan họ Bắc Ninh, các nghệ nhân nói năng bao giờ cũng lịch sự, nhún nhường, bên nam xưng là em và gọi những người bên nữ là liền chị, còn bên nữ thì cũng xưng là em và gọi bên nam là liền anh.

Mái tóc của người phụ nữ quý giá như vậy, nhưng dân ta đã kể rằng, ở một nhà kia, khi bạn của chồng đến nhà, không có tiền đãi khách, người vợ đã bán mái tóc của mình để cho chồng có thể thù tiếp bạn tri âm. Người vợ hiền thảo ngày xưa đã tận tụy với chồng con như thế đấy! Người dân xưa quan niệm rằng, cái đẹp không tách rời giá trị đạo đức, người phụ nữ đẹp phải là người biết nữ công gia chánh, chuyên cần lao động, sống có đạo đức:

+ Tóc dài những búi mà trưa

Ham chi người đẹp mà thưa việc làm.

Tham người có nghĩa tham chi tóc dài.

+ Tóc dài thì tốn tiền chanh

Nào ai bán tóc nuôi anh bao giờ.

Nói chung, mái tóc đẹp thường gắn với tuổi trẻ còn khi tuổi già thì ” tóc bạc da mồi“, ” tóc bạc mình gày“, ” tóc bạc lưng gù“, ” tóc bạc răng long “, thí dụ:

Ai vong thiếp cũng không vong

Ôm lòng chờ đợi dầu tóc bạc răng long cũng đành.

Có nhiều câu tục ngữ, lời ca dao nếu không chịu khó tìm thì nhiều bạn trẻ ngày nay không giải thích được. Thí dụ, tại sao lại có câu tục ngữ: ” Tốt tóc nhọc cột nhà “? Ngày trước, các bà, các cô tóc dài mỗi khi gội đầu, muốn cho tóc chóng khô để quấn tóc hay vấn khăn, thường có thói quen quật mái tóc nhiều lần vào cột nhà.

Hà Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2010

Ca Dao Tục Ngữ Bình Định

‘Bình Định nón Gò Găng

Bún Song thần An Thái

Lụa Đậu tư Nhơn Ngãi

Xoài Tượng chín Hưng Long

Mặc ai mơ táo ước hồng

Tình quê em giữ một lòng trước sau.

Bình Định có hòn Vọng Phu

Có đầm Thị Nai có Cù Lao Xanh.

Em về Bình Định cùng anh

Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa.

1.Muốn ăn bánh ít lá gai

Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi.

2.Bình Định có núi Vọng Phu Có Đầm Thị Nại có Cù Lao xanh.

3.Công đau công uổng công thừa Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan.

4.Mẹ ơi đừng đánh con đau Để con đánh trống hát tuồng mẹ nghe.

5.Ai về Bịnh Định mà coi Con gái Bình Định cầm roi đi quyền.

6.Ai về Bình định thăm bà Ghé vô em gởi lạng trà Ô long. Trà Ô long nước trong vị ngọt Tình đôi mình như đọt mía lau chúng tôi đi bờ lở một mình Phất phơ chéo áo giống hình trò

Ba Trò Ba đi học trường xa

Cơm canh ai nấu mẹ già ai coi

8.Chẳng tham ruộng cả ao liền Tham vì cái bút cá nghiên anh đồ.

Tiếng đồn Bình Định tốt nhà Phú Yên tốt lúa, Khánh Hoà tốt trâu

.Công đâu công uổng công thừa Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan

.Em về Đập Đá quê cha Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng

13.Anh về Đập Đá , Gò găng Bỏ em kéo vải sáng trăng một mình Tiếng ai than khóc nỉ non Vợ chàng lính thú trèo hòn Cù Mông

14.Chiều chiều én liệng Truông Mây Cảm thương Chú Lía bị vây trong thành

15.Non Tây áo vải cờ đào Giúp dân dựng nước xiết bao công trình

16.Cây Me cũ, Bến Trầu xưa Dẫu không nên tình nghĩa cũng đón đưa cho trọn niềm

17.Ngó vô Linh Đỗng mây mờ Nhớ Mai nguyên soái dựng cờ đánh Tây

18.Hầm Hô cữ nước còn đầy Còn gương phấn dũng , còn ngày vinh quang

19.Bình Định có đá Vọng Phu Có đầm Thị Nại có Cù lao Xanh Lụa Phú Phong nên duyên nên nợ Nón Gò găng khắp chợ mến thương

20.Bên kia sông, quê anh An Thái Bên này sông, em gái An Vinh Thương nhau chung dạ chung tình Cầu cha mẹ ưng thuận cho hai đứa mình lấy nhau

21.Cưới nàng đôi nón Gò Găng Xấp lãnh An Thái, một khăn trầu nguồn Ai về Tuy Phước ăn nem Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm

22.Rượu ngon Trường Thuế mê li Gặp nem Chợ Huyện bỏ đi sao đành

23.Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Gi Sông xanh, núi cũng xanh rì Vào Nam, ra Bắc ai cũng đi con đường này Nghìn năm gương cũ còn đây Lòng ơi! Phải lo nung son sắt kẻo nữa đầy bể dâu – Cầu Đôi nằm cạnh Tháp Đôi Dễ chi nhân ngãi mà rời được nhau

24.Tháp kia còn đứng đủ đôi Cầu còn đủ cặp huống cho tôi với nường ( nàng) Suốt bốn mùa xuân, hạ, thu, đông Thiếp ngồi dệt vải chỉ mong bóng chàng Dừa xanh trên bến Tam Quan Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu Ôm đàn gảy khúc Cầu hoàng Thiếp xin gõ nhịp để chàng lựa dây Bao giờ rừng quế hết cây Dừa Tam Quan hết nước thì em đây mới hết tình Dừa xanh sừng sững giữa trời Đem thân mà hiến cho đời thuỷ chung

25.Muốn ăn bánh ít nhân mè Lấy chồng Hòa Đại đạp chè thâu đêm Muốn ăn bánh ít nhân tôm Lấy chồng Hòa Đại ăn cơm củ mì

26.Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di Sông xanh núi cũng xanh rì Vào Nam ra Bắc cũng đi đường này chúng tôi về Phù Mỹ nhắn nhe Nhắn chị bán chè sao vậy chẳng lên?

Anh về dưới vạn thăm nhà

Ghé vô em gởi lạng trà Ô Long

chúng tôi về Bình Định thăm cha Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em

29.Quy Nhơn có tháp Chòi Mòi Có đầm Thị Nại chạy dài biển đông

30.Khéo khen con tạo trớ trêu

Nắn nguyên Bãi Trứng nhớ tổ tiên là Âu Cơ

32.Ai về thăm cảnh An Khê

Sông Ba chồng nhớ vợ nhà Sông Côn

Phân Biệt Ca Dao, Tục Ngữ, Thành Ngữ

2. Ca dao và dân ca: – Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Đứng về mặt văn học mà nhận định, khi chúng ta tước bỏ những tiếng đệm, những tiếng láy, những câu láy ở một bài dân ca, thì chúng ta thấy bài dân ca ấy chẳng khác nào một bài ca dao. Có thể nói, ranh giới giữ ca dao vàdân ca không rõ. Ca dao của ta có thể ngâm được nguyên câu. Còn dùng một bài ca dao để hát, thì bài ca dao sẽ biến thành dân ca. Vì hát yêu cầu phải có khúc điệu, và như vậy phải có thêm tiếng đệm. Vậy có thể nói, ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được, như các loại thơ khác và có thể xây dựng thành các điệu ca dao. Còn dân ca là câu hát đã thành khúc điệu. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất định, nó ngả về nhạc nhiều ở mặt hình thức, nó là nhạc do tiếng của con người đưa ra từ cổ họng. Xét về nguồn gốc phát sinh thì dân ca khác với ca dao ở chỗ nó được hát lên trong những hoàn cảnh nhất định, hay ở những địa phương nhất định. Dân ca thường mang tính chất địa phương, còn ca dao thì ngược lại, dù nội dung của bài ca dao có nói về một địa phương cụ thể nào, thì nó vẫn đươc phổ biến rộng rãi

“Đồng đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”

Hay:

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ

thì nhân dân nhiều nơi đều biết ngâm nga. Còn dân ca thì nhiều khi chỉ có dân địa phương mới biết, và mới hát được.. Nội dung của dân ca cũng nhue nội dung của ca dao, chủ yếu là trữ tình, tức biểu hiện cái nội tâm của tác giả trước ngoại cảnh. Cũng như tục ngữ, ca dao – dân ca là những bài văn vần do nhân dân sáng tác tập thể, được lưu truyền bằng miệng và / được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Trong tất cả những tính chất chung của văn học dân gian (trong đó có tục ngữ – ca dao – dân ca) :

tính nhân dân, tính hiện thực, tính lãng mãn, tính phổ biến, tính khuyết danh, tính truyền miệng, tính tập thể ….thì tính tập thể là tính chất cơ bản nhất

B. Thời kỳ xuất hiện: So với thần thoại và truyền thuyết thì ca dao có một hình thức văn nghệ tưởng như mới hơn. Nhưng theo kết quả nghiên cứu, tục ngữ, ca dao cũng xuất hiện cùng thời với thần thoại và truyền thuyết. Trong quá trình lao động, xuất hiện những câu hò, kiểu như “Dô ta”, như vậy ca hát đã có từ rất sớm, nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ sơ, và được sửa đổi qua các thế hệ của loài người. Xét nội dung những câu ” Năm cha, ba mẹ“, hay ” Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông“, ” Con dại, cái mang”, “con mống, sống mang“.. ta có thể biết được thời điểm xuất hiện câu đó, đólà thời kỳ tạp giao, hay tình trạng chồng chung vợ chạ, hoặc tóm tắt quá trình tạp giao từ chế độ mẫu hệ, rồi đến Phụ hệ… Ca dao, tục ngữ cũng mang ý nghĩa lịch sử vì nó gắn liền và phản ánh đời sống kinh tế, xã hội qua từng thời kỳ.

C. Nội dung và hình thức của tục ngữ – ca dao – dân ca:

1. Nội dung của tục ngữ: Tục ngữ được cấu tạo trên cơ sở thực tế, do lý trí nhiều hơn là do xúc cảm. tư tưởng biểu hiện trong tục ngữ là tư tưởng đanh thép, sắc bén, rút ở cuộc đời. Ở tục ngữ, tính chất phản phong là mạnh hơn cả. Về nội dung, tục ngữ là những nhận định sau kinh nghiệm của con người về lao động, sản xuất, về cuộc sống trong gia đình, xã hội. Nội dung ấy vừa phong phú, vừa vững chắc, vì nó đã được đúc kết qua nhiều thế hệ của con người. VD:

Quá mù ra mưa Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa Vỏ quýt dày có móng tay nhọn Cái sảy nảy cái ung Cõng rắn cắn gà nhà …

2. Hình thức của tục ngữ: Tục ngữ ban đầu chỉ là những câu nói xuôi ta, hợp lý, sau dần mới trở thành những câu đối có vần vè, gọn gàng hơn

Làm phúc phải tội Gà què ăn quẩn cối xay Có ở trong chăn, mới biết chăn có rận Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm …

Tục ngữ không nhất thiết, nhưng phần lớn đều có vần vè, hay có đối

No nên bụt, đói nên ma Bút sa, gà chết Có tật giật mình

Còn có những câu vần cách, cách hai chữ, ba chữ

May tay hơn hay thuốc Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão Gà cựa dài thịt rắn, gà cựa ngắn thịt mềm

Hoặc thể lục bát

Cá tươi thì xem lấy mang Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai

Tóm lại xét về sự phong phú cả về mặt nội dung cũng như hình thức, ta có thể thấy tục ngữ đã phát triển trước ca da rất nhiều. Còn nữa, ca dao thiên về tình cảm, biểu lộ tính tình của con người…nên chỉ có thể phát triển khi mà đời sống xã hội đã phức tạp.

3. Nội dung của ca dao: Có thể nói muốn hiểu biết về tình cảm của con người Việt Nam xem dồi dào, thắ m thiết và sâu sắc đến cỡ nào…thì không thể nào không nghiên cứu ca dao mà hiểu được.

Ca dao Việt nam là những bài tình tứ, là khuôn thước cho lối thơ trữ tình của ta.

Ca dao thể hiện tình yêu: tình yêu đôi lứa, gia đình, quê hương, đất nước, lao động, giai cấp, thiên nhiên, hoà bình…

Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ

Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ , canh gà Thọ Xương Tuyệt mù khói toả ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ…

Ca dao còn thể hiện tư tưởng đấu tranh của con người với thiên nhiên, với xã hội. Có thể nói nội dung của ca dao chủ yếu là trữ tình. Tìm hiểu được cái tình trong ca dao chúng ta sẽ thấy được tính chiến đấu, tính phản phong, tính nhân đạo chủ nghĩa chứa đựng trong ca dao.

4. Hình thức nghệ thuật của ca dao: Ca dao thường là những bài ngắn, hai, bốn, sáu, hoặc tám câu., âm điệu lưu loát và phong phú. Đặc điểm của ca dao về phần hình thức là vần vừa sát lại vừa thanh thoát, không gò ép, lại giản dị, và tươi tắn. Nghe có vẻ như lời nói thường mà lại nhẹ nhàng, gọn gàng, chải chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Có thể nói về mặt tả cảnh , tả tình không có một hình thức văn chương nào ăn đứt được hình thức diễn tả của ca dao. Ca dao dùng hình ảnh để nói lên những cái đẹp, những cái tốt, nhưng cũng có khi để nói về những cái xấu, nhưng không nói thẳng. Nhờ phương pháp hình tượng hoá, nên lời của ca dao tuy giản dị, mà rất hàm súc. Người con gái không được chủ động trong việc hôn nhân, đã ví mình như hạt mưa:

Thân em như hạt mưa rào Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa

Hay để tả một tình yêu trong trắng mới chớm nở của đôi lứa, ca dao noi:

Đôi ta như lửa mới nhen Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu

Đến như tả hạng người ngu đần, ca dao cũng đã đưa ra những hình ảnh táo bạo:

Mặt nạc đóm dày Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn[/cente] Ca dao ngoài nghệ thuật cụ thể hoá, còn có nghệ thuật nhân cách hoá, dùng vật vô tri để gán cho những tâm tư, tình cảm con người.

Thuyền ơi có nhớ bến chăng Bến thời một dạ khăng khăng đợi thuyền

Một số thể cổ điển của ca dao: Thể phú: Là trình bày, diễn tả…

Đường lên xứ lạng bao xa Cách một trái núi với ba quãng đồng Ai ơi đứng lại mà trông Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ Em chớ thấy anh lắm bạn mà ngờ Bụng anh vẫn phẳng như tờ giấy phong…

Thể tỉ: là so sánh, người ta thường mượn một cái khác để ngụ ý, so sánh, hay gửi gắm tâm sự của mình. Đây là phương pháp nghệ thuật chủ yếu trong sự diễn đạt tư tưởng và tình cảm. So sánh cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, làm cho lời thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết. So sánh trực tiếp:

Gối mền, gối chiếu không êm Gối lụa không mềm bằng gối tay em

Lối tỉ gián tiếp, tức nghệ thuật ẩn dụ, một phương pháp nghệ thuật tế nhị hơn:

Trăm năm đành lỗi hẹn hò Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa

…. Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng – Tre non đủ lá đan sàng nên chăng? – Đan sàng thiếp cũng xin vâng Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng? ………. Ca dao còn một phương pháp nghệ thuật độc đáo nữa là cách biểu lộ cảm xúc đối với ngoại cảnh, mở đầu cho sự biểu lộ tâm tình. Hứng là do cảm xúc mà nảy nở tình cảm, có thể là vui, cũng có thể là buồn [center] Cơm trắng ăn với chả chim Chồng đẹp vợ đẹp, những nhìn mà no

Trên trời có đám mây vàng Bên sông nước chảy có nàng quay tơ Nàng buồn nàng bỏ quay tơ Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành

MỘT SỐ LÀN ĐIỆU DÂN CA NGHỆ TĨNH

Tiếng giặm có nghĩa là ghép vào, điền vào, đan vào một chỗ thiếu….xuất hiện ở Nghệ Tĩnh cách đây khoảng ba , bốn trăm năm. Về nội dung, có nhiều bài hát giặm rất tình tứ, cũng có nhiều bài có tính chất chống giai cấp phong kiến. Về hình thức, phần nhiều các bài hát dặm đều gồm những câu năm chữ và cước vận, tức vần ở cuối câu: cứ hai câu cuối mỗi đoạn lại lấy một ý, điệp cả về ý, lẫn lời: vd:Tôi lấy chân khoả lại Tôi lấy bàn khoả lại hay:Thấy những lời kêu trách Nghe những lời kêu trách Bài hát có bao nhiêu đoạn thì có bấy nhiêu lần điệp lại như vậy, nghe đọc thì thấy vướng, nhưng khi hát, nólàm nổi ý của câu hát, của cả bài. Hát giặm cũng có ba lối trình diễn: nam nữ đối đáp, có lối vài ba người hát kể lên một giai thoại, hay một sự việc vừa xảy ra, lại có lối kể một sự tích gì có tình tiết nội dung, và hình thức đều được trau chuốt. Hát giặm Nghệ Tĩnh không hoàn toàn do dân sáng tác, có khi do một số nho sĩ sáng tác, được nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi VD:Trai: Tiết thanh nhàn thong thả Muốn thăm hỏi vài câu Cuốc thánh thót kêu sầu Gió phảng phất mùa sâu Nhớ trong sách đã lâu: Chuyện “Tư mã phượng cầu” Thương thì mũi tìm trâu Trâu đâu tìm chạc mũi Gái: Trời mở rộng phong quang Giã ơn trời mở rộng phong quang Em đánh tiếng đua sang Đêm tàn canh vò võ Tay em cầm con bấc đỏ Mong bỏ đĩa dầu đầy Mời bạn ở lại đây Đôi ta giở lời rày Tình đó với nghĩa đây Trai: Giống như đọi nác đầy Bưng nhẩn nhẩn trên tay Không khuy sơ một hột Gió nỏ triềng một hột Công đôi ta thề thốt Kể đã mấy niên rồi Lòng đã quyết lứa đôi Ngãi đã quyết thề bồi Nhất ngôn nói hẳn lời Đừng bốn chốn ba nơi Đừng trăn gió chào mời Trăng nhiều trăng rạng rỡ Trăn nhiều đèn rạng rỡ Gái: Em đã có chồng rồi Em đã có lứa rồi Vung úp đã vừa nồi Đũa ghép đã thành đôi Bạn đừng có ỡm ờ với tôi! Tôi lấy chân khoả lại Tôi lấy bàn khoả lại Trai: Têm một quả trầu không Bỏ vô hộp con rồng Đi băng nội băng đồng Qua năm bảy khúc sông Qua chín mười đỗi đồng Nghe tin em đã có chồng Anh quăng lắc vô bụi Bạn gạt tùa vô bụi.

Anh thương em một tháng hai kỳ Dồn đi tính lại, cũng như mười ngày Năm rộn mà chầy Có hai mươi bốn miện (Miện = kỳ) Xuân qua rồi hè /đến Thu đã muộn, đông rồi Nhớ bạn cũ chưa nguôi, Sang lập xuân vũ thuỷ Đêm em nằm em nghĩ Nghĩ kinh trập, xuân phân, Lòng tưởng sự ái ân Sang thanh minh, cốc vũ Đêm dêm nằm nỏ ngủ Nhớ bạn mãi thường thường Tiết lập hạ nhớ thương Bước sang tuần tiểu mãn Trông ra ngoài chán chán Tiết mang hiện lại gần Người đập đất, gánh phân Để mùa màng gặt hái Anh thương em mãi mãi Sang hạ chí tiết hè Em nghe tiếng sầu ve Em buồn trong gia sự Bạn buồn trong gia sự *** Tiết tiểu thử, đại thử Trời nắng sốt lắm thay! Ra ngồi tựa cột cây Anh với em than thở Bạn với mình than thở *** Tiết lập thu, xử thử Ai diều sáo mặc ai Vàng lác đác giếng tây Ta thương người bạn cộ (Cộ = cũ) Nhớ mãi người bạn cộ *** Vừa đến tiết bạch lộ Bầy chim trắng bay sang Cây heo hắt lá vàng Sang thu phân hàn lộ. *** Đêm em nằm, em chộ (chộ = thấy) Tiết sương giáng lại kề Trông bạn cũ ta về Sang lập đông giá rét Tiết tiểu tuyết, đại tuyết Trời giá rét lắm thay Sang đông chí cấy cày Dạ bồi hồi nhớ bạn Tiết tiểu hàn chưa dạn Đã bước sang đại hàn Dạ tưởng nhớ người ngoan Vừa năm cùng tháng tận Vừa cuối mùa cuối tận. *** Phận lại ngồi trách phận Phận nỏ giám trách phận Anh thương em từ tháng giêng đến tháng chạp

6. Hát ví Nghệ Tĩnh: Hát Ví Nghệ Tĩnh là những loại dân ca xuất hiện trong nghề nông và nghề thủ công. Có nhiều điệu hát ví như: hát phường vải, hát phường cấy, hát đò đưa, hát phường buôn…. Trong những điệu hát này, hát phường vải và hát phường cấy có tổ chức và phổ biến hơn cả.

1. Hát phường vải:Giai đoạn 1: Những câu hát phường vải là những câu biểu lộ tâm tình của hai bên trai gái, hoặc là những ước mơ về yêu đương, hoặc là những lời oán trách kẻ chia rẽ tình duyên, và bao giờ cũng lạc quan, tin tưởng. Hat phường vải gồm có bốn giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: hát dạo, hát mừng, hát chào và hát hỏi. Giai đoạn thứ hai: hát đố và hát đối. Giai đoạn thứ ba: hát mời và hát xe kết. Giai đoạn thứ tư: hát tiễn.

Hát dạo

Bấy lâu thức nhắp mơ màng Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng * Bấy lâu nghe hết tiếng nàng Bên anh nức tiếng đồn vang đã lừng Nghe tin anh cũng vội mừng Vậy nên chẳng quản suối rừng anh sang * Bấy lâu anh mức chi nhà Để em dệt gấm thêu hoa thêm sầu * Đồn rằng cá uốn thân vây Đồn em hay hát, hát hay anh tìm * Chốn này vui vẻ, tưng bừng Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi * Đêm khuya trời tạnh sương im Tai nghe tiếng nhạc, chàng Kim tới gần. * Dừng xa, khoan kéo, ơi phường! Hình như có khách viễn phương tới nhà * Đi qua nghe tiếng em reo, Nghe xa em kéo, muốn đeo em về. * Đi ngang trước cửa nàng Kiều, Dừng chân đứng lại, dặt dìu đôi câu * Đi ngang thấy búp hoa đa`o Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai * Đồn đây là chốn Đao` Nguyên Trăng thanh gió mát, cắm thuyền dạo chơi * Lạ lùng anh mới tới đây, Thấy hoa liền hái, biết cây ai trồng * Đến đây vàng cũng như son Ai ai thời cũng như con một nhà

Khi nháy mắt, khi nhện sa Khi chuột rích trong nhà Khi khách kêu ngoài ngõ Tay em đưa go đủng đỉnh Tay em chìa khoá động đào Bước năm lần cửa, ra chào bạn quen * Mừng rằng bạn đến chơi nhà Cam lòng thục nữ gọi là trao tay

Hát hỏi

Em có chồng rồi, em nói rằng chưa Tội riêng em đó, nỏ lừa được anh * Em chưa có chồng, em mới đến đây Chồng rồi chiếu trải, màn vây ở nhà Anh về chẻ lạt bó tro Rán sành ra mỡ, em cho làm chồng. Em về đục núi lòn qua, Vắt cổ chày ra nước, thì ta làm chồng * Trai thanh xuân ngồi hàng thuốc bắc, Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây Hai ta tình nặng nghĩa dày, Đối ra đáp được, lúc này tính sao? * – Đến đây hỏi khác tương phùng Chim chi một cánh bay cùng nước non? -Tương phùng nhắn với tương tri, Lá buồm một cánh bay đi khắp trời * – Lá gì không nhánh, không ngành? Lá gì chỉ có tay mình trao tay? – Lá thư không nhánh, không ngành, Lá thư chỉ có tay mình trao tay. * – Nghe tin anh hoc có tài Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng? – Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra Đù mẹ con hát, tổ cha thằng bày! * – Người Kim Mã cưỡi co ngựa vàng Đất Phù Long rồng nổi, thì chàng đối chi? – Người Thanh Thuỷ gặp khách nước trong Hoành sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa? * Nghe anh bôn tẩu bấy lâu Nghệ An có mấy chiếc cầu hỡi anh? – Nghệ An có ba mươi sáu chiếc cầu Phồn hoa đi lại bốn cầu mà thôi Cầu danh, cầu lợi, cầu tài Cầu cho đây đó làm hai giao hoà * Nhớ em nhất nhật một ngày Đêm tơ tưởng dạ, làng rày nhớ trông – Chờ em nửa tháng ni rồi Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng * – Nghe tin anh giỏi, anh tài Đào tiên một cõi Thiên Thai ai trồng? – Thiên thai là của nàng Kiều Riêng chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra

Lê Thị Thu Hoài @ 12:57 03/03/2012 Số lượt xem: 21143