Top 8 # Xem Nhiều Nhất Ca Dao Tuc Ngu Hinh Anh Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Altimofoundation.com

Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam Toàn Tập Ca Dao Tuc Ngu Viet Nam Toan Tap Doc

Ca dao tục ngữ Việt Nam toàn tập

21. Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng

22. Cần Thơ là tỉnh Cao Lãnh là quê Anh đi lục tỉnh bốn bề Mảng lo buôn bán không về thăm em

23. Cậu cai nón dấu lông gà Cổ tay đeo nhẫn gọi là cậu cai Ba năm được một chuyến sai Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê Cậu cai buông áo em ra Ðể em đi bán kẻo mà chợ trưa

24. Cây cao bóng mát không ngồi Ra ngồi chỗ nắng trách trời không mây

25. Cây da Chợ Đũi nay nó trụi lủi, trốc gốc, mất tàn Tình xưa còn đó, ngỡ ngàng nan phân!

26. Cây khô không dễ mọc chồi Mẹ già không thể sống đời với con

27. Cây không trồng nên lòng không tiếc Con không đẻ nên mẹ ghẻ không thương

28. Cây trên rừng hoá kiểng Cá dưới biển hoá long Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong Anh đi lục tỉnh giáp vòng Đến đây trời khiến đem lòng thương em

29. Cây vông đồng không không trồng mà mọc Con gái xóm này chẳng chọc mà theo

30. Cây xanh lá đỏ hoa vàng Hạt đen rễ trắng đố chàng là chi (đố là gì? Cây rau sam)

31. Cây xanh thời lá cũng xanh Cha mẹ hiền lành để đức cho con Mừng cây rồi lại mừng cành Cây đức lắm chồi, người đức lắm con Ba vuông sánh với bảy tròn Đời cha vinh hiển đời con sang giàu

32. Cậu cai buông áo em ra Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa Chợ trưa dưa nó héo đi Lấy chi nuôi mẹ, lấy gì nuôi em?

33. Cha mẹ anh có đánh quằn đánh quại Bắt anh ra treo tại nhành dương Biểu từ ai, anh từ đặng Chớ biểu anh từ người thương, anh không từ

34. Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày

35. Chanh chua thì khế cũng chua Chanh bán có muà, khế bán quanh năm

36. Cháu ơi cháu ngủ cho ngon Của dì, dì giữ ai bòn mặc ai

37. Chàng ôi, giận thiếp mà chi Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng

38. Chàng về để áo lại đây Để khuya em đắp gió khuya lạnh lùng

39. Chàng về để áo lại đây Phòng khi em nhớ cầm tay đỡ buồn

40. Chặt không đứt, bứt không rời Phơi không khô, chụm không cháy (Đố là con gì? Con sam)

41. Chẳng tham ruộng cả, ao tiền Chỉ tham cái bút, cái nghiên anh đồ

42. Chân đi ba bước lại dừng Tuổi em còn bé chưa từng đi buôn Đi buôn cho đáng đi buôn Đi buôn cau héo có buồn hay không

43. Chén tình là chén say sưa Nón tình anh đội nắng mưa trên đầu

44. Chẻ tre bện sáo cho dầy Chận ngang sông Mỹ có ngày gặp em

45. Chê đắng chê hôi Đã chê xôi không dẻo Lại chê kẹo không ngọ

46. Chê đây, lấy đấy sao đành Em chê cam sành , lấy phải quít hôi Quít hôi bán một đồng mười Cam ba đồng một, quít ngồi trơ trơ

47. Chết trước được mồ, được mả Chết sau nằm ngả, nằm nghiêng

48. Chiếc khăn cô đội trên đầu Gió xuân đưa đẩy rơi vào tay tôi Bâng khuâng tôi chẳng muốn rời Trao cô thì tiếc, giữ thời không yên

49. Chiếu bông mà trải góc đền Muốn vô làm bé biết có bền hay không?

50. Chiều chiều, buồn miệng nhai trầu Nhớ người quân tử bên cầu ngẩn ngơ

Đ

1. Đánh bạc quen tay Ngủ ngày quen mắt Ăn vặt quen mồm

2. Đánh chết, mà nết không chừa Đến mai ăn chợ, bánh dừa lại ăn

3. Đàn bà nói có là không Nói yêu là ghét, nói buồn là vui

4. Đàn bà tốt tóc thì sang Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu

5. Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi

6. Đàn kêu tích tịch tình tang Ai đem công chúa lên thang mà về

7. Đàn ông đi biển có đôi Đàn bà đi biển mồ côi một mình

8. Đàn ông không râu vô nghì Đàn bà không vú lấy gì nuôi con

9. Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ nhu Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ

10. Đèn cầu tàu ngọn lu ngọn tỏ Anh trông không rõ, anh ngỡ đèn màu Rút gươm đâm họng máu trào Để em ở lại, em kiếm thằng nào hơn anh

11. Đèn nhà lầu hết dầu đèn tắt Lửa nhà máy hết cháy thành than Nhang chùa Ông hết mạt nhang tàn Kể từ khi em biết được chàng Đêm về em lăn lộn như con chim phượng hoàng bị tên

12. Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc Xứ nào dốc bằng xứ Nam Vang Một tiếng anh than ba bốn đôi vàng em không tiếc Anh lấy đặng em rồi anh trốn biệt lánh thân

13. Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần THương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run

14. Đèn treo ngang quán Tỏ rạng bờ kinh Em có thương anh thì ăn nói cho thiệt tình Đừng để cho anh lên xuống một mình bơ vơ

15. Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn Đồng hồ điểm nhặt nhớ chàng không quên

16. Đêm khuya ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn trông sao sao mờ Buồn trông con nhện giăng tơ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai

17. Đêm khuya thắp chút dầu dư Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình

18. Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?

19. Đêm khuya trăng dọi lầu son Vào ra thương bạn, héo hon ruột vàng Bển qua đây đàng đã xa đàng Dầu tui có lâm nguy thất thế Hỏi con bạn vàng nó cứu không? Chiều rồi kẻ Bắc, người Đông Trách lòng người nghĩa, nói không thiệt lời

20. Đêm nằm tàu chuối có đôi Hơn nằm chiếu tốt lẻ loi một mình

21. Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài Bây giờ chàng đã nghe ai Aó ngắn chẳng đắp, aó dài không chung Bây giờ sự đã nhạt nhùn Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua Cá lên mặt nước, cá khô Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm

22. Đêm qua nguyệt lặn về Tây Sự tình kẻ ấy, người đây còn dài Trúc với mai, mai về trúc nhớ Trúc trở về, mai nhớ trúc không Bây giờ kẻ Bắc, người Đông Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư

23. Đêm thanh cảnh vắng Thức trắng năm canh Một duyên, hai nợ, ba tình Đường kia,nỗi nọ, phận mình ra sao

24. Đến đây đất nước lạ lùng Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo

25. Đến ta mới biết của ta Trăm nghìn năm trước biết là của ai

26. Đề huề chồng vợ Như bí rợ nấu kiểm với khoai lang Như tép rang ăn cặp với canh khoai mỡ

27. Đi chùa lạy Phật cầu chồng Hộ pháp liền bảo đờn ông hết rồi

28. Đi đâu cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam

29. Đi đâu mà vội mà vàng Mà vấp phải đá mà quàng phải dây Thủng thỉnh như chúng anh đây Thì đá nào vấp, thì dây nào quàng

30. Đi cho biết đó biết đây Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn

31. Đi qua nhà nhỏ Thấy đôi liễn đỏ có bốn chữ vàng Thạnh suy anh chưa biết chớ thấy nàng anh vội thương

32. Đó đây trước lạ sau quen Chẳng gần, qua lại đôi phen cũng gần

33. Đói lòng ăn đọt chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

Đói lòng ăn nắm lá sung Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng

34. Đói lòng ăn nửa trái sim Uống lưng bát nước đi tìm người thương

35. Đói lòng nuốt trái khổ qua Nuốt vô sợ đắng, nhả ra con bạn cười

36. Đôi ta chẳng được sum vầy Khác nào cánh nhạn lạc bầy kêu sương Vì sương nên núi bạc đầu Cành lay bởi gió hoa sầu vì mưa

37. Đôi ta đã trót lời thề Con dao lá trúc đã kề tóc mai Dặn rằng: Ai chớ quên ai!

38. Đôi ta như loan với phượng Nỡ lòng nào để phượng lià cây Muốn cho có đó, có đây Ai làm nên nỗi nước này chàng ôi Thà rằng chẳng biết thì thôi Biết rồi gối chiếc lẻ loi thêm phiền

39. Đôi ta như thể con tằm Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong Đôi ta như thể con ong Con quấn con quít, con trong con ngoài Đôi ta như thể con bài Chồng đánh vợ kết chẳng sai con nào

40. Đố ai biết luá mấy cây Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng Đố ai quét sạch lá rừng Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây Rung cây, rung cỗi, rung cành Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng

41. Đố ai lặn xuống vực sâu Ru con không hát, em chừa nguyệt hoa

42. Đố anh con rít mấy chưn Cầu Ô mấy nhịp, chợ Đinh mấy người Mấy người bán áo con trai Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim

43. Đốt than nướng cá cho vàng Lấy tiềng mua rượu cho chàng uống chơi

44. Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm Muốn ăn bôn súng mắm kho Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm

45. Đồng tiền Vạn lịch Thích bốn chữ vàng Anh tiếc công anh gắn bó với cô nàng bấy lâu Bây giờ cô lấy chồng đâủ Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng

46. Đổ lửa than nên vàng lộn trấu Anh mảng thương thầm chưa thấu dạ em

47. Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ, đi bán giỏ nuôi mẹ Anh gặp em đây không cửa không nhà Muốn vô gá nghĩa, biết là đặng chăng?

48. Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Lúa rụng đầy đồng, gà chẳng cần ăn

49. Đờn cò lên trục kêu vang Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương Chiều nay qua phản bạn hồi hương Nghe bậu ở lại vầy vươn nơi nào Ghe tui tới chỗ cắm sào Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông

50. Đu đủ tiá, bạc hà cũng tiá Ngọn lang dâm, ngọn mía cũng dâm Anh thấy em tốt mã anh lầm Bây giờ anh biết rõ, vàng cầm anh cũng buông

51. Đưa nhau đổ chén rượu hồng Mai sau em có theo chồng đất xa Qua đò gõ nhịp chèo ca Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say

52. Đường trơn trợt gượng đi kẻo té Áo còn nguyên ai nỡ xé vá quàng Hồi sớm mai, gặp em sao anh không hỏi Hay dạ của chàng nay đã hết thương?

53. Đứt tay một chút còn đau Huống chi nhân nghĩa, lià sao cho đành

Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Thành Ngữ Tiếng Anh.

Trong giao tiếp hằng ngày những câu ca dao tục ngữ góp phần thêm phong phú và đa dạng cho ngôn ngữ.Ở Việt Nam có vô vàn những thành ngữ tục ngữ ca dao được ông bà ta đúc kết từ những kinh nghiệm quý báu .

                                          Câu ca dao tục ngữ tiếng Anh

1.Những câu thành ngữ-tục ngữ thông dụng.

Money make the mare go: Có tiền mua tiên cũng được

– Like father, like son: Con nhà tông không giống lông thì cũng giống cánh

– Beauty is in the eye of the beholder: Giai nhân chỉ đẹp trong mắt người hùng.

– The die is cast: Bút sa gà chết

– Two can play that game: Ăn miếng trả miếng

– Love is blind: Tình yêu mù quáng

– So far so good: Mọi thứ vẫn tốt đẹp

– Practice makes perfect: Có công mài sắt có ngày nên kim

– Silence is gold: Im lặng là vàng

– The more the merrier: Càng đông càng vui

Time is money: Thời gian là tiền bạc

– The truth will out: Cái kim trong bọc có ngày lòi ra

A wolf won’t eat wolf: Chó sói không bao giờ ăn thịt đồng loại

– Walls have ear: Tường có vách

– Everyone has their price: Con người cũng có giá của nó

– It’s a small world: Quả đất tròn

– You’re only young once: Miệng còn hôi sữa

– Ignorance is bliss: Không biết thì dựa cột mà nghe

– No pain, no gain: Có làm thì mới có ăn

Câu ca dao tục ngữ tiến Anh

– A swallow cant make a summer: Một con én ko làm nổi mùa xuân

– A bad beginning makes a bad ending: Đầu xuôi đuôi lọt.

– A clean fast is better than a dirty breakfast: Giấy rách phải giữ lấy lề. Kết quả hình ảnh cho những câu ca dao tục ngữ tiếng anh

– Barking dogs seldom bite: Chó sủa chó không cắn.

Money is the good servant but a bad master: Khôn lấy của che thân, dại lấy thân che của

– The grass are allways green on the other side of the fence: Đứng núi này trông núi nọ

– One bitten, twice shy: Chim phải đạn sợ cành cong

– In rome do as Romans do: Nhập gia tùy tục

– Honesty is the best policy: Thật thà là thượng sách

– A woman gives and forgives, a man gets and forgets: Đàn bà cho và tha thứ, đàn ông nhận và quên

– No roses without a thorn: Hồng nào mà chẳng có gai, việc nào mà chẳng có vài khó khăn!

– It never rains but it pours: Phúc bất trùng lai ( họa vô đơn chí )

– Save for the rainny day: Làm khi lành để dành khi đau

– It’s an ill bird that fouls its own nest: Vạch áo cho người xem lưng / Tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại.

– Don’t trouble trouble till trouble troubles you: Tránh voi chẳng xấu mặt nào.

– Still water run deep: Tâm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi

– Men make house, women make home: Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm

– East or west – home is best: Ta về ta tắm ao ta ( Không đâu tốt bằng ở nhà )

– Many a little makes a mickle: Kiến tha lâu đầy tổ

– Penny wise pound foolish: Tham bát bỏ mâm

2. Những câu cao dao Anh – Việt phổ biến nhất

– Flat wine can cause drunkenness with large consumption Great speakers can create boredom with lengthy orations : Rượu nhạt uống lắm cũng say. Người hay nói lắm dẩu hay cũng nhàm

– True gold is to be tested with coal and fire Good bells by how they reverberate, good people by how they verbalize: Vàng thì thử lửa thử than Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời

– Compliments to whoever built this leaden bell Wonderfully shaped like a real one except for being mute: Khen ai khéo đúc chuông chì. Dạng thì có dạng, đánh thì không kêu.

– If a cockatiel chose a pelican to mess with, He will beg for mercy when starting to get hit: Chim chích mà ghẹo bồ nông. Đến khi nó mổ, lạy ông tôi chừa.

– East or west-home is best: Ta về ta tắm ao ta Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Don’t postpone until tomorrow what you can do today: Đừng để những việc cho ngày mai mà bạn có thể làm hôm nay

Trung tâm Anh ngữ Du học Việt Úc-đến với trung tâm để chạm tới ước mơ Liên hệ : 334-336 Tân Sơn Nhì _ Điện thoại: (028) 62 676 345 145 Nguyễn Hồng Đào _ Điện thoại: (028) 38 494 245 Email: hotro@vietaus.edu.vn Facebook: AnhNguDuHocVietUc

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Like

Loading…

Related

Ca Dao Tục Ngữ Về Rồng

Details Category: Kỹ năng mềm Published on Monday, 12 February 2018 02:12 Written by cudinhlang Hits: 5233

Rồng trong thành ngữ và tục ngữ Việt NamRồng lúc to lúc nhỏLớn thì đào sơn đảo hải – nhỏ ẩn tích tàn hình

Đa mưu túc trí muôn đời thịnh Hữu dũng vô mưu vạn đời suy Ghen ăn tức ở muôn đời nát Khiêm tốn nhường nhịn vạn kiếp sang.

Là con vật huyện thoại nhưng phổ biến, vừa cao quý, độc đáo, diệu kỳ lại vừa thân quen, gần gũi và giàu ý nghĩa biểu tượng, rồng (long) được lấy làm hình ảnh ẩn dụ sinh động cho nhiều câu thành ngữ, tục ngữ rộng rãi mà thâm thúy của người Việt Nam.* Ăn như rồng cuốn: Ăn nhanh, ăn đến đâu hết đấy.* Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội nước/uống như rồng leo, làm như mèo mửa: 1. Ăn nhiều, ăn tham mà làm ít, cẩu thả; 2. Ăn thật làm chơi.* Cá [chép] hóa rồng: 1. Học trò đi thi được đỗ đạt vinh hiển; 2. Người được thỏa chí, toại nguyện, thành đạt.* Cá gặp nước, rồng gặp mây: 1. Gặp môi trường thuận lợi, tương hợp, may mắn; 2. Cảnh sum vầy, hội ngộ.* Chạm rồng trổ phượng: 1. Trang trí lộng lẫy, tinh xảo, cầu kỳ; 2. Sự tô điểm rối rắm, rườm rà.* Con Rồng cháu Tiên: Dòng dõi đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.* Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng, chiếu hoa nệm gấm không chồng cũng hư: Một quan niệm đề cao hạnh phúc gia đình.* Dựa mạn thuyền rồng: Được vua chọn làm cung phi, làm vợ hoặc lấy được người giàu sang.* Đầu rồng đuôi tôm/rắn: 1. Việc khi đầu thì hưng thịnh, sau thì suy yếu; 2. Chuyện lúc khởi đầu có vẻ to tát, đẹp đẽ nhưng kết thúc lại chẳng ra gì; 3. Sự cọc cạch, không tương xứng giữa những bộ phận có phẩm chất quá khác biệt trong cùng một chỉnh thể.* Đẹp duyên cưỡi rồng: Lấy được người chồng lý tưởng.* Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay chết ngõng: Một quan niệm xưa, đề cao vai trò của người đàn ông, khẳng định phụ nữ cần thiết phải lập gia đình.

* Họa long điểm tinh (Vẽ rồng điểm mắt): Hành động đúng hướng, nắm bắt được trọng tâm của sự vật, sự việc.* Học chẳng biết chữ cu chữ cò, nói những chữ như rồng như rắn: Nói phét, nói suông, dốt hay nói chữ.* Hội long vân (Hội rồng mây): Cuộc gặp gỡ tốt lành, thời cơ thuận lợi.* Long bàn hổ cứ (Rồng cuộn hổ ngồi): Thế đất hiểm yếu, linh thiêng.* Long ly quy phụng (Rồng lân rùa phượng): Bốn con vật quý và thiêng theo quan niệm tín ngưỡng.* Lưỡng long chầu nguyệt: 1. Hình hai con rồng chầu chụm vào một mặt trăng thường thấy ở nơi thờ tự; 2. Một người tài giỏi lại có được hai người hỗ trợ, phò tá nhiệt tình, tương xứng và trung thành.* Mả táng hàm rồng: Gặp may mắn, tự nhiên ngày càng phát đạt thịnh vượng, [tưởng như] do mồ mả tổ tiên được chôn vào chỗ đất đẹp.* May hóa long, không may xong máu: Gặp may thì vinh hoa phú quý, không may thì chết.* Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng: Bản chất đã xấu thì khó thể trở thành người tốt, kẻ thuộc tầng lớp dưới khó thể lên địa vị cao.* Nem rồng chả phượng: Món ăn ngon, cầu kỳ và sang trọng.* Như rồng gặp mây: Gặp người, gặp hoàn cảnh tương hợp, thỏa lòng mong mỏi khát khao.* Nói như rồng cuốn: Nói những lời hay ý đẹp nhưng nói suông, chẳng bao giờ thực hiện điều gì mình đã nói, đã hứa.* Nói như rồng leo: Nói năng khôn khéo, mạch bạo.* Rồng bay phượng múa: Hình dáng, đường nét tươi đẹp, uyển chuyển, phóng khoáng.* Rồng đen lấy nước thì nắng, rồng trắng lấy nước thì mưa: Một cách dự báo và lý giải trạng thái thời tiết qua hiện tượng thiên nhiên – mây (rồng lấy nước ở đây tức là đám mây hình cột từ phía biển vươn lên trời).* Rồng đến nhà tôm: Người cao sang đến thăm kẻ thấp hèn (thường thấy trong lời ngoại giao, nói nhún của chủ nhà với khách).* Rồng lội ao tù: Người anh hùng sa cơ thất thế, bị kìm hãm, tù túng, không có điều kiện thi thố tài năng.* Rồng mây gặp hội: Cơ hội may mắn cho sự gặp gỡ và hòa nhập.* Rồng nằm bể cạn phơi râu: Trạng thái thờ ơ vì bất lực của người vốn tài giỏi nhưng bị đặt trong môi trường khó hoạt động, khó phát triển được.* Rồng thiêng uốn khúc: Người anh hùng, tài giỏi nhưng gặp vận xấu, phải sống nép mình, ẩn dật chờ thời cơ.

* Rồng tranh hổ chọi: Hai đối thủ hùng mạnh giao đấu.* Rồng vàng tắm nước ao tù: Người tài giỏi ở trong hoàn cảnh bó buộc, bất lợi hoặc phải chấp nhận chung sống với kẻ kém cỏi.* Thêu rồng vẽ phượng: Bày vẽ, làm đẹp thêm.* Trai ơn vua – cưỡi thuyền rồng, gái ơn chồng – bồng con thơ: Một quan niệm xưa, cho rằng nghĩa vụ chính của người đàn ông là phụng sự nhà cầm quyền, còn của người đàn bà là chăm lo gia đình và con cái.* Trứng rồng lại nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu: Tính tất yếu của sự bảo toàn, di truyền những giá trị và bản chất nòi giống.* Vẽ rồng nên/ra giun: Có mục đích hay, tham vọng lớn nhưng do bất tài nên chỉ tạo ra sản phẩm xấu, dở.* Vẽ rồng vẽ rắn: Bày vẽ lôi thôi, luộm thuộm, rườm rà.

Văn Thuyết Minh: Ca Dao

Nhân năm Giáp Thân cầm tinh con khỉ, xin gom nhặt một số câu ca dao – tục ngữ của nước nhà thành một “từ điển mi – ni” theo thứ tự ABC để bạn đọc tham khảo và nghiền ngẫm:

Chuột chù chê khỉ rằng hôi

Khỉ lại trả lời: cả họ mày thơm?

Chuột chù vốn rất hôi, vậy mà dám mở miệng chê cái hôi ở khỉ, để cho khỉ hỏi “móc” lại một câu phải cứng họng. Phàm, khi mở miệng chê bai ai thì ta hãy tự phán xét mình trước, xem thử mình có mắc phải điều đáng bị phê phán như ở người sắp bị mình chê bai hay không. Tốt hơn hết đừng nên chê bai dè bỉu người khác, mà chỉ nên góp ý xây dựng với thiện tâm, thiện chí.

Hứa hươu hứa vượn: Hươu với vượn là loài thú hoang dã rất nhanh nhẹn, thoắt hiện đó rồi thoắt mất đó, muốn theo dấu vết của chúng là một chuyện hết sức khó khăn. Vậy nên “hứa hươu hứa vượn” là lời hứa suông, hứa cho qua chuyện không đảm bảo được gì, rất dễ “xù”, dễ bội hứa “chạy làng”!

Khỉ ho cò gáy: Ám chỉ nơi hoang dã, vừa vắng vẻ hoang liêu vừa xa xôi hẻo lánh, không ai lui tới ra vào. Thường dùng để chỉ những vùng khô cằn sỏi đá, không có đủ điều kiện để con người “cắm dùi” mà sinh sống, hay mưu đồ tạo dựng cơ nghiệp. .

Khi khỉ mắc độc già: (độc là loài khỉ độc to lớn thường sống một mình). Tránh né con khỉ vì những “trò khỉ” láu lỉnh, lí lắc của nó, nhưng gặp lại thứ khỉ độc hung dữ phá phách hơn. Câu này tương tự như câu “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”, chê bai thứ này lại gặp thứ khác tồi tệ hơn. Ngụ ý khuyên ta trong cuộc sống hằng ngày đừng nên “kén cá chọn canh” quá, mà hãy bằng lòng với những gì ta đang có được, vậy mà yên thân!

Má ơi, đừng gả con xa

Chim kêu, vượn hú biết nhà mà đâu?!

Xưa, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, nhiều khi vì tham của, tham giàu mà gả con vào nơi xa xôi cách trở, con lên kiệu hoa đi rồi thì xem như biền biệt khó về. Ngụ ý câu này nói lên nỗi lòng trắc ẩn của người con không muốn sống xa cha mẹ khi lập gia đình riêng, đồng thời, phê phán luôn hiện tượng ép gả, ép cưới của các bậc cha mẹ, làm cho con cái không được tự do định đoạt hôn nhân dại sự của mình.

Mồ hôi gió đượm

Thiếp thương chồng thiếp phải chạy theo

Con ơi, mẹ dắt lên đèo

Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia!

Mượn cảnh chim kêu, vượn trèo để tả cảnh băng đèo, vượt núi gian nan trắc trở của người vợ chạy theo bóng dáng của chồng mình, mà lột tả tình yêu thương mặn nồng của người phụ nữ đối với người bạn đời đang phải đi xa, lìa xa tổ ấm.

Nhăn nhó như khỉ ăn gừng: (câu tương tự là “Mặt nhăn như khỉ ăn ớt”) Khỉ mà ăn nhằm phải thứ cay như ớt, như gừng thì mặt nhăn nhó rất khổ sở. Mượn hình ảnh khổ sở của khỉ để ám chỉ người đang đau buồn, khổ tâm, cau có khó chịu đối với mọi người chung quanh.

Nuôi khỉ dòm nhà: Khỉ ưa phá phách, ăn vụng, ăn trộm, vậy nên nuôi khỉ dòm chừng nhà chẳng khác nào nuôi kẻ xấu, kẻ gian, lợi không thấy mà chỉ thấy hại. Ngụ ý khuyên ta thận trọng trong việc dùng người, tương tự như câu “nuôi ong tay áo”.

Rầu rĩ như khỉ chết con: Khỉ là loài động vật linh trưởng rất giống với người, không chỉ giống vì có hai tay, mà còn giống ở tình cảm. Khỉ mà mất con thì ngồi buồn rũ rượi, bần thần một chỗ trống thảm thương, tội nghiệp. Lấy hình ảnh của khỉ buồn rầu khi mất con để ví với tình cảm rầu rĩ của người vừa bị mất mát, tiêu hao một thứ gì đó quý giá đối với mình.

Rung cây nhát khỉ: Khỉ rất sợ người, gặp là chúng tót lên cây cao ngay, cho nên người ta thường rung cây để hù dọa khỉ, nhưng càng rung thì khỉ càng bám chặt vào ngọn cây không sao rơi rớt xuống được. Ngụ ý nói về sự hăm dọa, hù nhát một ai đó nhưng không có tác dụng, không hiệu quả, sự việc chẳng đi đến đâu.

Vượn hú chim kêu: Cảnh hoang dã buồn thảm ở những nơi thâm sơn cùng cốc. .

Vượn lìa cây có ngày lượn rũ

Anh xa nàng mặt ủ mày chau!

Vượn là loài sống trên cây, nếu bắt nó phải xa rời cây chắc có ngày nó sẽ chết. Người yêu người cũng vậy, nếu bị bắt buộc phải chia lìa nhau, mỗi người một ngả, ắt sẽ gây nên cảnh đứt ruột xé gan vì thương, vì nhớ. Câu này diễn tả tình yêu của đôi lứa, khi xa nhau thì mặt mày ủ rũ, lúc nào cũng chau mày nhăn nhó, khổ sở vì nỗi nhớ nhung, vì bất đắc ý.