Cập nhật nội dung chi tiết về Rồng Trong Ngôn Ngữ Và Văn Học Dân Gian Việt Nam mới nhất trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Trong thực tế đời sống, từ săn bắt hái lượm đến định cư nông nghiệp, dân Việt cổ thường gặp phải những tai nạn ở sông biển, mà họ cho là do thủy quái, một loài động vật ở nước gây ra. Chính vì thế mà họ đã vẽ mình, xăm trên thân hình những dạng hình ngoằn ngoèo (truyền thuyết kể là từ đời Hùng Vương) và mãi đến đời Trần mới bãi bỏ.
Chính cái truyền thuyết về Con Rồng Cháu Tiên là một thứ truyền thuyết Việt cổ đã bị khúc xạ bởi yếu tố văn hóa ngoại nhập, văn hóa Hán tộc.
Suốt quá trình bị đô hộ và sau đó là giao lưu văn hóa với Trung Hoa, khái niệm rồng của Trung Hoa mới du nhập Việt Nam. Từ đó, người Việt mới có khái niệm rồng như là một con vật linh thiêng, trong hệ thống tứ linh: long, lân, quy, phụng. Và từ đó, trong ngôn ngữ, từ long hay rồng mới gắn với cương vị đế vương, vua chúa, hay những thực thể cao quý. Như một loạt từ sau đây:
Long thể: thân thể vua Long nhan: mặt vua Long sàng: giường vua Long ngai: ngai vua Long cổn, long bào: áo vua Long châu, long thuyền: thuyền vua…
Và hình ảnh tưởng tượng của rồng cũng đã chi phối cách mô tả ngoại hình các bậc vua chúa của nhà văn: râu rồng, mũi rồng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non v.v…
Đó là trong ngôn ngữ và văn chương bác học. Còn trong ngôn ngữ và văn học dân gian, từ rồng, hình tượng rồng được dùng mở rộng hơn. Và tất nhiên là không mấy hệ thống. Nên đề cập về hình tượng rồng, từ rồng trong ngôn ngữ và văn học dân gian là một câu chuyện tản mạn, có tính chất phiếm luận.
Có thể thấy dân gian quan niệm về rồng tản mạn như sau:
1. Cá gáy hóa rồng:
Quan niệm này cũng tiếp thu từ Trung Hoa. Ca dao ta nói:
Mồng bốn cá đi ăn thề. Mồng tám cá về cá vượt Vũ môn.
Vũ môn, tức cửa Vũ gồm có ba tầng. Ở Trung Quốc và ở Việt Nam ta đều có địa điểm này. Đó là nơi mà người xưa tưởng là cá trải qua cuộc thi khảo sát về trình độ và năng lực. Nếu vượt qua ba cấp Vũ môn thì sẽ hóa rồng(!)
Từ khái niệm cụ thể đó, thành ngữ “cá hóa rồng” thường dùng để chỉ việc thi cử thành đạt của sĩ tử ngày xưa. Dân gian đã từng nuôi ước mơ:
Biết bao giờ cá gáy hóa rồng, Đền công ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xưa
Khái niệm này cũng được mở rộng, dùng để chỉ cho việc người con gái lấy được người chồng xứng đáng:
Phận gái lấy được chồng khôn, Xem bằng cá vượt Vũ môn hóa rồng.
2. Rồng nở từ trứng và ở hang.
Nhưng trong dân gian cũng có một quan niệm khác: rồng cũng sinh sản như rắn:
– Trứng rồng thì nở ra rồng Liu điu thì nở ra dòng liu điu. Hay: Trứng rồng thì nở ra rồng, Hạt thông thì nẩy cây thông rườm rà.
Và rồng cũng ở hang:
– Lấy chồng thì phải theo chồng, Chồng đi hang rắn, hang rồng, cũng đi.
Quan niệm này hẳn có màu sắc bản địa hơn quan niệm trên kia.
3. Trong ngôn ngữ và văn học dân gian, rồng là một yếu tố ví von, so sánh để biểu đạt một số mặt sinh hoạt của con người, như ăn, nói, viết, giao tế, thời vận, tình yêu, nhận định về con người và cuộc sống.
Trước hết về chuyện ăn. Chỉ có một thành ngữ: “ăn như rồng cuốn”. Rồng cuốn tức là rồng hút, chỉ hiện tượng vòi rồng trong tự nhiên, như cách chiêm nghiệm thời tiết:
Rồng đen uống nước thì nắng, Rồng trắng uống nước thì mưa.
Về chữ viết, người văn hay chữ tốt thường được ca ngợi “như rồng bay phượng múa”.
Ngay cả lời nói: “nói như rồng” là nói thao thao bất tuyệt:
Trong lưng chẳng có một đồng, Lời nói như rồng chúng chẳng thèm nghe.
Nhưng coi chừng, bao giờ cũng cần nói đúng thực chất, nói phù hợp với kiến thức mà mình tiêu hóa, nếu không dễ trở thành khập khiễng: “nói những lời như rồng như rắn”. Thêm yếu tố rắn làm chuyển đổi giá trị tức khắc:
Học chẳng biết chữ cua, chữ còng, Nói những lời như rồng, như rắn!
Trên phương diện giao tế, dân gian dùng thành ngữ: “rồng đến nhà tôm” để vừa tỏ sự tự khiêm, nhún nhường của gia chủ, vừa ca ngợi người khách quý. Nhưng có khi, đó cũng là cách mai mỉa:
Mấy đời rồng đến nhà tôm. Tôi đến nhà chị không môn thì bầu.
Âu cũng là một lối giao tế thực dụng. Và quen thuộc nhất là rồng chỉ thời vận. Hanh thông như là “rồng gặp mây”. Thường chỉ người thành đạt khoa cử:
“Như cá gặp nước, như rồng gặp mây”
Nhưng mất yếu tố thời vận thì chỉ là “rồng nằm ở cạn”, không còn vùng vẫy, múa may gì được, mà chỉ còn trơ hình hài:
Rồng nằm bể cạn giơ râu, Mấy lời anh nói giấu đầu hở đuôi. Hay đau khổ hơn là:
Rồng vàng tắm nước ao tù, Người khôn ở với đứa ngu bực mình.
Đó cũng là cái tình thế bất như ý:
Khốn nạn thay, nhạn ở với ruồi, Tiên ở với cú, người cười với ma Con công ăn lẫn với gà, Rồng kia rắn nọ, coi đà sao nên.
Dễ thường mấy khi rồng mây được dùng để chỉ lứa đôi, vì những hình tượng khác quyến rũ hơn, như: mận – đào, loan – phượng, yến -oanh, gió – trăng v.v… nhưng điều đó cũng có:
Mấy khi rồng gặp mây đây, Để rồng than thở với mây vài lời. Nữa mai rồng ngược mây xuôi, Biết bao giờ lại nối lời rồng mây.
Như thế, “lời rồng mây” cũng là lời hẹn thề, lời chung thủy, lời nước non.
Họa hoằn lắm, rồng được dùng như là một biểu tượng của ngăn trở, của cách chia:
Ngồi buồn gởi bức thư sang, Có con rồng bạch chắn ngang giữa trời Vậy nên thơ chẳng tới nơi, Trông thơ, ai biết những lời làm sao.
Ở trên, đã nhắc đến những kết hợp rồng – phượng, rồng – rắn. Ngoài ra, còn có kết hợp rồng – hổ, theo dạng thức đối lập, trong cách ví von nhẹ nhàng mà không kém sâu sắc và mai mỉa, đồng thời lại là chơi chữ:
Xấu hổ nhưng mà tốt long Đến khi no lòng, tốt cả long lẫn hổ.
Trong nghệ thuật dân gian và cung đình Việt Nam cũng như Trung Hoa, rồng là hình tượng trang trí quen thuộc trên lâu đài đình tạ am miếu, như những mô típ: lưỡng long tranh châu, lưỡng long triều nguyệt, long hý châu, long lộng vũ, long ẩn, và đặc biệt là các điệu hóa cả chiếc thuyền vua, long thuyền tức thuyền rồng. Đến nỗi có người con gái nghèo mơ ước:
Vốn tôi chỉ có ba đồng, Nửa để nuôi chồng, nửa để nuôi tôi. Còn thừa mua cái bình vôi, Mua xanh, mua chảo, mua nồi nấu ăn. Còn thừa mua nhiễu vấn khăn, Mua dăm vuông vóc may chăn cho chàng. Còn thừa mua chiếc thuyền rồng, Đem ra cửa bể cho chàng thả chơi…
Cũng là lời nói ngoa cho đỡ day dứt cảnh nghèo, chứ dân giả ai mà chẳng biết:
Tay chèo cất mái hò khoan Thuyền rồng chúa ngự, khoan khoan mái chèo.
Một kiểu nói khác bày tỏ sự ước ao sang cả, biểu hiện một tâm lý hưởng thụ, để trở thành phản bội: Một ngày dựa mạn thuyền rồng, Còn hơn chín tháng nằm trong thuyền chài.
Cách nói ấy tất nhiên bị phủ định bằng một suy nghĩ chín chắn hơn, xác thật hơn:
Chớ tham ngồi mũi thuyền rồng, Tuy rằng tốt đẹp, nhưng chồng người ta.
Và quả thật, dân gian đã xét đoán đúng giá trị con người, nhìn đúng thực chất con người, không lệ thuộc những thứ trang sức phù hoa, những thứ trang hoàng sang trọng:
Dù ngồi cửa sổ chạm rồng Chăn loan gối phượng, không chồng cũng hư
Nhưng sâu sắc và không kém chua chát là lời cảm thán sau đây:
Khen ai khéo dựng bình phong, Bên ngoài long phượng, trong lòng gạch vôi!
Trong một cách nói ngoa ngữ, cường điệu, một chi tiết thiếu bình thường trên gương mặt người con gái cũng có thể bị châm biếm một cách dí dỏm:
Lỗ mũi em mười tám gánh lông, Chồng thương chồng bảo râu rồng trời cho.
Đúng là người lớn lắm chuyện. Hãy trở về với thế giới trẻ em. Trong tâm tưởng hồn nhiên, ngây thơ của trẻ em qua đồng dao, rồng đã là một biểu tượng của hạnh phúc, của ấm no, giàu có như lời chúc tụng của trẻ em ngày xưa đối với gia chủ trong những ngày tết nguyên đán:
Súc sắc súc sẻ, Nhà nào còn đèn còn lửa, Mở cửa cho anh em chúng tôi vào, Bước lên giường cao, thấy đôi rồng ấp. Bước xuống giường thấp, thấy đôi rồng chầu. Ông sống một trăm, thêm năm tuổi lẻ…
Đó cũng là lời chúc tất cả bạn đọc trước thềm năm mới.
T.Đ (SH29/02-88)
Con Trâu Trong Văn Học Dân Gian
Tranh trâu Đông Hồ.
Có thể nói, tri thức về con trâu xuất hiện sớm nhất và đầy đủ nhất trong tri thức về loài vật của người Việt. Hình ảnh con trâu được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần và lao động sản xuất của nhân dân ta từ hàng ngàn năm qua. Truyện cổ tích Trí khôn của ta đây có sự hiện diện của con trâu, lý giải nguyên nhân của việc trâu không có răng ở hàm trên. Truyện ngụ ngôn Lục súc tranh công, nhắc tới trâu là con vật đầu tiên, cùng với các vật nuôi trong nhà có công sinh ra thóc, gạo, ngô, đỗ cho con người.
Rõ ràng, con trâu được nhà nông coi như một phần không thể thiếu trong đời sống. Nên trâu được coi như người bạn thân thiết, cùng chia ngọt sẻ bùi với người nông dân. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh trâu xuất hiện thường xuyên, gắn với đời sống lao động sản xuất của nhà nông: Ruộng đầm nước cả bùn sâu/Suốt ngày anh với con trâu cày bừa.
Hoặc:
Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta, Cấy cày vốn nghiệp nông gia, Ta đây trâu đấy ai mà quản công, Bao giờ cây lúa gặt bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
Con trâu là đầu cơ nghiệp, là nguồn sống của người nông dân; nên người xưa đã đúc rút các câu thành ngữ, tục ngữ về kinh nghiệm để chọn được trâu tốt: Mắn đẻ cày tài, Mua trâu xem sừng, mua chó xem lưng; Trâu cổ cò, bò cổ giải; Lang đuôi thì bán, lang trán thì nuôi; Đầu thanh, cao tiền, thấp hậu, chẳng tậu cũng hoài; Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi, Ăn ra lôi, cày ra thép; Trâu to ngà, càng già đường kéo; Da đồng, lông mốc, Đầu thanh, mặt nhẹ, khô chân/Vai cao, mình thẳng, mặt gân, sườn tròn/Chùng đùi, thắt quản, ngắn đuôi, to ngà, móng hến thì nuôi đáng tiền.
Trong nhiều câu ca dao, tục ngữ, hình ảnh trâu còn xuất hiện để răn dạy người đời, hoặc truyền đạt các kinh nghiệm sống như: Làm ruộng phải có trâu/ Làm dâu phải có chồng; Tậu trâu xem vó, lấy vợ xem nòi; Làm ruộng không trâu như làm giàu không thóc; Một trâu anh sắm đôi cày/Một anh hai vợ có ngày oan gia/Tan đàn xẻ nghé không xa!; Có cưới thì cưới con trâu/Đừng cưới con nghé nàng dâu không về; Vợ dại thì đẻ con khôn/Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm; Trâu chậm thì anh bán đi/Rựa cùn đánh lại, vợ thì làm sao.
Trâu thân thiết là thế, có sức khỏe, hiền lành là thế; nên được người nông dân rất tín nhiệm: Trâu gầy vẫn tầy bò khỏe; Yếu trâu hơn khỏe bò; Thà chết ở vùng chân trâu/Còn hơn chết rụi ở khu đĩa đèn; Trâu ta ăn cỏ đồng ta/Tuy là cỏ vét nhưng là cỏ thơm…
Vì tín nhiệm, nên có nhiều câu ca dao, tục ngữ rất đề cao trâu. Người nông dân coi việc có được con trâu tốt là một việc hệ trọng nhất thiết phải làm trong đời người, là có được một tài sản giá trị: Tậu trâu, cưới vợ làm nhà/Trong ba việc ấy thật là khó thay; Ruộng sâu trâu nái;…
Con trâu không chỉ đóng vai trò quan trọng sản xuất nông nghiệp, mà còn được coi là linh vật trong nhiều lễ hội của người nông dân. Nhiều nơi tổ chức hội chọi trâu để tìm ra trâu thắng cuộc làm vật tế thần, cầu cho mưa thuận gió hòa, nhà nhà bình an, làm ăn tấn tới. Nên có câu ca: Dù ai buôn đâu bán đâu/Mồng mười tháng 8 chọi trâu thì về. Năm 2003, SEA Game 22 do Việt Nam đăng cai tổ chức cũng lấy hình tượng trâu vàng làm linh vật, là biểu tượng của thể thao Việt Nam.
Thân thiết, gắn bó với nhà nông vốn vất vả một nắng hai sương, nên trâu xuất hiện trong nhiều câu ca với thân phận lam lũ: Kiếp trâu ăn cỏ, kiếp chó ăn dơ; Trâu chết mặc trâu, bò chết mặc bò; Trâu lành chẳng thấy ai mừng, trâu ốm – lắm kẻ mài dao; Trâu có đàn, bò có lũ, chớ để thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu.
Đôi khi, hình ảnh trâu được xuất hiện trong những sắc thái không mấy tích cực: Trâu buộc lại ghét trâu ăn/Quan võ lại ghét quan văn dài quần; Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã; Việc để lâu tựa cứt trâu hóa bùn; Sừng trâu cong khó uốn, kẻ ương ngạch khó dạy thành người; Đầu trâu mặt ngựa…
Đời sống tinh thần và lao động sản xuất của người Việt Nam đã ghi nhận vai trò không thể thiếu của con trâu từ xa xưa đến nay. Hình ảnh con trâu siêng năng, cần cù, khỏe mạnh gắn liền với lũy tre làng là một trong những biểu tượng của văn hóa Việt. Ngày Xuân Tân Sửu, điểm lại những hình ảnh trâu trong văn học dân gian để càng hiểu hơn nét văn hóa ấy.
Tổng Hợp Tục Ngữ Dân Gian Việt Nam Hay Nhất
Tổng hợp những câu tục ngữ dân gian Việt Nam hay nhất về mọi mặt trong cuộc sống, được ông cha ta đúc kết, truyền lại cho các thế hệ sau học tập, noi theo. Để tham khảo chi tiết kho tàng tục ngữ Việt Nam, các bạn theo dõi bài viết sau đây và tải về chi tiết.
Tục ngữ là gì?
Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền. Nội dung tục ngữ thường phản ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất, ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội, hoặc thể hiện triết lý dân gian của dân tộc.
1. Các câu ca dao Việt Nam 1. Ai ai cũng có duyên phần,
Bon chen mặc kẻ, tảo tần thây ai.
2. Ai làm cái phận em nghèo,
Kém ăn, kém nói, kém điều khôn ngoan.
Bởi chưng chẳng có bạc vàng,
Cho nên em phải nhường khôn cho người.
3. Ai mà lấy thúng úp voi,
Úp sao cho khỏi lòi vòi, lòi đuôi?
4. Ăn nhanh, đi chậm, hay cười,
Hay mua đồ cũ là người Việt Nam.
5. Ăn rươi chịu bão cho cam
Không ăn chịu bão, thế gian cũng nhiều.
6. Ba đồng một mớ đàn ông,
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.
Ba trăm một mụ đàn bà,
Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi.
7. Bần gie, bần ngã, bần quỳ,
Cảm thương thân phận chia li thêm buồn.
8. Buôn bấc rồi lại buôn dầu,
Buôn nhiễu đội đầu, buôn nhẫn lồng tay.
Sầu về một tiết tháng giêng,
May áo cổ kiềng người mặc cho ai.
Sầu về một tiết tháng hai,
Bông chửa ra đài người đã hái hoa.
Sầu về một tiết tháng ba,
Mưa héo ruộng cà nắng cháy ruộng dưa.
Sầu về một tiết tháng tư,
Con mắt lừ đừ cơm chẳng buồn ăn.
Sầu về một tiết tháng năm,
Chưa đặt mình nằm gà gáy sang canh.
9. Buồn rầu, buồn rỉ, buồn nỉ, buồn non,
Buồn vì một nỗi sớm con muộn chồng.
10. Buồn từ trong dạ buồn ra,
Buồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo.
11. Buồn về một tiết tháng giêng,
May áo cổ kiềng người mặc cho ai.
Buồn về một tiết tháng hai,
Bông chửa ra đài người đã hái hoa.
Buồn về một tiết tháng ba,
Con mắt la đà trong dạ tương tư.
Buồn về một tiết tháng tư,
Con mắt lừ đừ cơm chả buồn ăn.
Buồn về một tiết tháng năm,
Chưa đặt mình nằm gà gáy chim kêu.
Buồn về tiết tháng sáu này,
Chồng cày vợ cấy chân chim đầy đồng,
Bấy giờ công lại hoàn công.
12. Cái vòng danh lợi cong cong,
Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào.
Cá trong lờ đỏ hỏe con mắt,
Cá ngoài lờ ngúc ngắc muốn vô.
Tung tăng như cá trong lờ,
Trong không ra được, ngoài ngờ là vui.
13. Chết thời cơm nếp thịt gà,
Sống thời xin bát nước cà không cho.
14. Có tiền chán vạn người hầu,
Có bấc có dầu, chán vạn người khêu.
15. Con cò mắc rò mà chết,
Con quạ mua nếp làm chay,
Con cu đánh trống ba ngày,
Chào mào đội mũ làm tầy đọc văn.
Láng giềng chạy đến lăng xăng,
Mua ba thước vải đội khăn cho cò.
16. Con quạ ăn dưa, bắt con cò phơi nắng,
Nghĩ chuyện đời, cò trắng quạ đen.
Con quạ mà biết mình đen,
Nó đâu có dám mon men tới cò.
17. Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá: cá lặn; trông sao: sao mờ.
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
18. Đời cha đi hái hoa người,
Đời con phải trả nợ đời thay cha.
19. Đói lòng ăn quả khổ qua,
Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười.
20. Đời xưa kén những con dòng,
Đời nay ấm cật no lòng thì thôi.
21. Đời xưa quả báo còn chầy,
Đời nay quả báo một dây nhãn tiền.
22. Chùa nát nhưng có Bụt vàng,
Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng.
23. Ai đi cách trở sơn khê
Nhớ tô mỳ Quảng, tình quê mặn nồng.
24. Ai mà quyết chí tu hành,
Có đi Yên Tử mới đành lòng tu.
Chữ rằng phi hữu phi vô,
Có đi Đông độ mới đồ Tây phương.
25. Ai qua Yên Tử – Quỳnh Lâm,
Vĩnh Nghiêm chưa đến, thiền tâm chưa đành.
26. Ai về Bình Định mà nghe,
Nói thơ chàng Lía, hát vè Quảng Nam.
27. An Lãng bánh đúc, bánh đa,
Ngân Cầu bánh bỏng, Hương La bánh bèo.
28. An Phú nấu kẹo mạch nha,
Làng Vòng làm cốm để mà tiến vua.
Họ Lại làm giấy sắc vua,
Làng Láng mở hội kéo cờ hùng nghê.
29. Anh Sơn phủ bạc thiếp hòe,
Gió Nam Đàn thổi, Liễu về với xuân.
30. Ấy ngày mồng sáu tháng ba,
Ăn cơm với cà đi hội chùa Tây.
Hò chơi bên gái bên trai,
Xin cùng cô bác đừng ai nghi ngờ.
31. Bà phải có ông chồng phải có vợ,
Giàu thì một lọ khó thì một niêu.
Dù cho cha đánh mẹ treo,
Cũng không bỏ được Chùa Keo ngày rằm.
32. Ba Xã có lưới quăng chài,
Mật Ninh hút thuốc kéo dài cổ ra.
2. Những câu tục ngữ Việt Nam A Ao có bờ sông có bến
Ă Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
 Ân trả nghĩa đền
Ân đoạn nghĩa tuyệt
B Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
Bé đi câu, lớn đi hầu, già đi hỏi nợ Bé người con nhà bác, lớn xác con nhà người Bé người to con mắt Bé người đòi chơi trèo Bè thì bè lon, sào thì sào sậy Bè ai người ấy chống Buôn có bạn, bán có phường Bụt chùa nhà không thiêng Bạn bè con chấy cắn đôi Bạn bè là nghĩa tương tri Bầu ơi thương lấy bí cùng , tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn Bán anh em xa, mua láng giềng gần C Có chí thì nên
D Dao sắc không gọt được chuôi
Dân giàu nước mạnh. Dục tốc bất đạt Dĩ đức báo oán: lấy ơn đức xử với kẻ thù để tiêu diệt mối thù Dĩ hòa vi quí: lấy sự hòa thuận nhau làm quí nhất Dùi đục chấm nước mắm: ăn nói cộc cằn thô lỗ khó nghe Dửng dưng như bánh chưng ngày Tết: nguội lạnh, không muốn để ý tới. Đ Đất lành chim đậu.
G Gieo gió gặp bão
E Em nghe tiếng hát đâu xa
Còn trẻ hay già mà còn tinh vang.
Ê Êm như ru
Ếch ngồi đáy giếng
H Hai đánh một không chột cũng què
Hai hổ phân tranh, nhứt hổ tử thương Học đi đôi với hành Học thầy không tày học bạn Học ăn, học nói, học gói, học mở Học mười năm biết một ngu si Chơi mà không học, mất cả tương lai Học tài thi phận Hổ chết để da, người ta chết để tiếng Hi sinh đời bố, củng cố đời con Học một biết mười K Khôn ăn cái, dại ăn nước.
L Lá rụng về cội
Lá lành đùm lá rách. Lên voi xuống chó. Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói coi chừng rụng răng. Liệu cơm gắp mắm. Lùi một bước tiến ngàn dặm. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Lù đù vác cái lu mà chạy. Lửa thử vàng gian nan thử sức. Lựa gió xoay chiều. Lành ít dữ nhiều. Lắm kẻ yêu hơn nhiều người ghét. Liệu việc như thần. M Muôn người như một ăn cột mà ra Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Mua danh ba vạn,bán danh ba đồ. Mưa tháng ba hoa đất, mưa tháng tư hư đất. Mèo khen mèo dài đuôi. NH Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột Nhất thì, nhì thục Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền. Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò Nhân chi sơ tính bổn thiện Những người cặp mắt lá răm, đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền. Nhìn bụng ta, suy ra bụng người. Nhìn mặt mà bắt hình dong. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng. Nhường cơm sẻ áo. Nhất cận thị, nhị cận giang NG Người sống đống vàng. Nghèo sinh bệnh, giàu sinh tật. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Ngu dốt mà nhiệt tình thành phá hoại. Người ta là hoa đất. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Ngồi mát ăn bát vàng. Ngọt như mía lùi. Ngọt mật chết ruồi. O Oán không giải được oán Oan có đầu, nợ có chủ Oan oan tương báo , dỉ hận liên miên Oán thù nên giải không nên kết Ô Ông thò chân giò, bà thò nậm rượu Ơ Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác Ở nhà nghe Đông Hà lúa héo Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Ở xó chuồng heo,hơn là theo phía vợ Phép vua thua lệ làng. Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí. Q Quân tử phòng thân; tiểu nhân phòng bị, gậy. Quân tử nhất ngôn kí xuất, tứ mã nan truy Quỷ tha, ma bắt Quả báo nhãn tiền Quan nhất thời, dân vạn đại Quýt làm cam chịu Qua cầu rút ván Quân tử trả thù mười năm chưa muộn Ráng mỡ gà có nhà thì chống. Ráng mỡ gà thì gió , ráng mỡ chó thì mưa. Rau nào sâu nấy. Ruộng bề bề chẳng bằng nghề trong tay. Rừng vàng, biển bạc. Rừng không hai cọp, nước không hai vua Rừng nào cọp nấy Ráng mỡ gà,có nhà thì giữ Sinh lão bệnh tử Sinh li tử biệt Sông có khúc, người có lúc Sóng Trường Giang, sóng sau đập sóng trước Sông sâu còn có kẻ dò, đố ai lấy thước mà đo lòng người Sai một li đi một dặm Sự thật mất lòng Sông sâu sóng cả chớ ngã tay chèo Sông cạn đá mòn Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó. Sinh cơ lập nghiệp T Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. TH Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt Ư Ước gì được nấy Ướt như chuột lột Uốn cây từ thuở còn non. Dạy con từ thuở con còn ngây thơ. V Vỏ quýt dày có móng tay nhọn Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm Việc nhà thì ngán, việc làng thì siêng. Việc nước trước việc nhà. Vụng chèo khéo trống Việc nhà thì nhác việc chú bác thì siêng Văn hay chữ tốt Việc người thì sáng, việc mình thì quáng Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ Xôi hỏng bỏng không Xa thơm gần thối Xa thương, gần thường Xem bói ra ma, quét nhà ra rác Xởi lởi trời cho, so đo trời lấy lại Xa mặt cách lòng Y Yêu nhau lắm, cắn nhau đau Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho. Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng Yêu nhau vạn sự chẳng nề, dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng Yêu nhau xa cũng nên gần, ghét nhau cách một bàn chân cũng lìa
Truyền Thống Văn Hóa Dân Tộc Trong Ca Dao, Tục Ngữ, Thành Ngữ Việt Nam.
MỤC LỤCA. PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………11. Tên đề tài……………………………………………………………………12. Lý do chọn đề tài………………………………………………………… 13. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………… 14. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………… 25. Phương pháp nghiên cứu 26. Cấu trúc tiểu luận……………………………………………………………2B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU…………………………………2 Chương 1. Các khái niệm liên quan……………………………………….2 Chương 2. Truyền thống văn hóa dân tộc qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao 41. Truyền thống nhân hậu, đoàn kết……………………………………………….42. Truyền thống trung thực, tự trọng…………………………………………………63. Truyền thống biết ơn, uống nước nhớ nguồn……………………………………64. Một số thành ngữ khác về truyền thống con người Việt………………………… 8 Chương 3 : Dấu ấn văn hóa dân tộc qua ý nghĩa biểu tượng của thành ngữ, tụcngữ Việt Nam…………………………………………………………………………9C. KẾT LUẬN…………………………………………………12D. TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………131A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tên đề tàiTRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG CA DAO, TỤC NGỮ,THÀNH NGỮ VIỆT NAM.2. Lý do chọn đề tài. Thành ngữ tục ngữ được xem như túi khôn của nhân loại, tục ngữ thành ngữkhông chỉ là những kinh nghiệm dân gian của ông cha mà chứa đựng trong đó còn là kếttinh nền văn hóa của cả một dân tộc. Thành ngữ tục ngữ gần gũi với giao tiếp trong cuộcsống hàng ngày, người ta đôi khi sử dụng thành ngữ như một thói quen, như một câucửa miệng mà quên mất yếu tố văn hóa ở trong đó. Nhận thấy tính bức thiết của đề tàinày, tiểu luận ” Truyền thống văn hóa dân tộc trong ca dao, tục ngữ thành ngữ ViệtNam ” sẽ tập trung phân tích, làm rõ ý nghĩa những thành ngữ thể hiên truyền thốngvăn hóa dân tộc của người Việt Nam, đồng thời phân tích những yếu tố văn hóa ẩn chứadưới lớp vỏ ngôn từ, qua đó giúp người đọc hiểu một cách rõ ràng và sâu sắc về văn hóadân tộc Việt Nam.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 3.1 Đối tượng Kho tàng thành ngữ tục ngữ, ca dao dân tộc là vô cùng to lớn, do vậy bài viết sẽchỉ đề cập tới một số thành ngữ điển hình, được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàngngày. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Trong bài đề cập tới truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam, đây là một đề tàirộng lớn mang tính bao quát. Bài tiểu luận chỉ tập trung vào một số truyền thống tiêubiểu mang tính đặc trưng cho con người và dân tộc Việt Nam như truyền thống nhânhậu, đoàn kết ; truyền thống trung thực tự trọng ; truyền thống uống nước nhớ nguồn.24. Mục đích nghiên cứu Qua việc khảo sát, thống kê, phân tích, bài viết sẽ tập trung lý giải đặc điểm ngữnghĩa của bộ phận tục ngữ thể hiện truyền thống văn hóa dân tộc, so sánh đối chiếu chấtliệu ngôn ngữ cùng ý nghĩa câu thành ngữ tục ngữ với câu tương tự của các nước khác,qua đó để tìm hiểu đặc trưng văn hoá của người Việt.5. Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê, phân loại;phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp nghiêncứu liên ngành.6. Cấu trúc của tiểu luận.Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của bài viết bao gồm 3 chương:Chương 1: Các khái niệm liên quan.Chương 2: Truyền thống văn hóa dân tộc trong ca dao, thành ngữ, tục ngữ Việt Nam. Chương3: Dấu ấn văn hóa dân tộc qua ý nghĩa biểu tượng của thành ngữ tục ngữ Việt Nam.
Sau cùng là Tài liệu tham khảo.B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU. CHƯƠNG 1: CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN.1.1 Định nghĩa về văn hóa của UNESCO Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất trí tuệ và cảm xúc,quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương , những lối sống, những quyền cơbản của con người và hệ thống những giá trị những phong tục, tín ngưỡng. Văn hóa đem3lại cho con người khả năng suy xét về bản thân, chính văn hóa giúp cho chúng ta trởthành sinh vật đặc biệt, nhân bản, có lý tính có phê phán và dấn thân một cách có đạolý.Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình làmột phương án chưa hoàn thành, đặt ra để xem xét thành tựu của bản thân, tìm tòi khôngmệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo những công trình mới mẻ, vượt trội bảnthân.1.2 Định nghĩa về ngôn ngữ Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài người,phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói vàngôn ngữ viết, trong thời đại hiện nay, nó là công cụ quan trọng nhất của sự trao đổi vănhoá giữa các dân tộc. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội, vàlà công cụ tư duy của con người.1.3 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa. Người ta đã nói rằng ngôn ngữ và văn tự là kết tinh của văn hóa dân tộc, nhờngôn ngữ và văn tự để được lưu truyền và trong tương lai, nền văn hóa cũng nhờ vàongôn ngữ để phát triển. Sự biến đổi và phát triển ngôn ngữ lại luôn luôn đi song song vớibiến đổi và phát triển văn hóa. Vậy muốn nghiên cứu sâu về văn hóa phải nghiên cứungôn ngữ, và tất nhiên muốn đi sâu vào ngôn ngữ phải chú tâm đến văn hóa.1.4 Khái niệm về thành ngữ, tục ngữ. -Thành ngữ là một cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa, nghĩa củachúng có tính hình tượng, gợi cảm. – Tục ngữ là những câu nói được đúc kết từ kinh nghiệm, luân lí, là những câu nóihoàn chỉnh, tục ngữ được coi như một tác phẩm văn học trọn vẹn bởi nó luôn mang bachức năng nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ.4CHƯƠNG 2 . TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG CA DAO,TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ.1. Truyền thống nhân hậu, đoàn kết.Có thể nói nhân hậu, đoàn kết là một trong những truyền thống quý báu nhất của dân tộcta. Khó có một dân tộc nào trên thế giới có ý thức dân tộc mạnh mẽ cùng truyền thốngđoàn kết như dân tộc ta.Trải qua 4000 năm lịch sử, dân tộc ta từ khi dựng nước đã phảigiữ nước do đó ý thức dân tộc luôn được đặt lên trên hết, điều này được thể hiện rõ néttrong văn hóa nước ta, mà biểu hiện của nó được thể hiện một cách rõ nét trong kho tangthành ngữ tục ngữ. Thành ngữ tục ngữ ca dao về tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái được thểhiện một cách rõ nét qua những câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao như:– Lá lành đùm lá rách : người có lòng giúp người khác trong cơn khó khăn. Hoạn nạn– Chết cả đống còn hơn sống một mình : tinh thần đoàn kết, sống chết có nhau.– Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ : tinh thần đoàn kết, đòng cam cộng khổ.– Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết : đề cao sức mạnh đoàn kết trong tập thể.– Đồng tâm hiệp lực ( đồng sức đồng lòng): cùng một lòng, cùng hợp sức để đạt mụctiêu chung– Thương người như thể thương thân: tinh thần nhân đạo cao cả, coi trọng giá trịcon người.– Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao– Bầu ơi thương lấy bí cùngTuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.– Nhiễu điều phủ lấy giá gươngNgười trong một nước thì thương nhau cùng. Chúng ta có lẽ không xa lạ gì với những câu tục ngữ, thành ngữ trên, ông cha tađã sử dụng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ để thể hiện thông điệp của mình. Đây đượcxem như những lời răn dạy, những bài học mà ông cha ta đã đúc kết từ ngàn đời. Những“bầu”, những “bí” hay “lá lành”, “lá rách” đều mang ý nghĩa biểu tượng cho con người5Việt Nam, những đồng bào cùng chung sống trong mái nhà chung. Đất nước Việt Namlà một đất nước nhỏ, dân tộc Việt Nam là tổng hòa mối quan hệ của 54 dân tộc anhem .Nếu không có sự đoàn kết, tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau thì dân tộc này,đất nước này làm sao có thể có được hòa bình êm ấm, tự do tự chủ. Thành ngữ, tục ngữ còn nói lên bài học về lòng nhân hậu vị tha.– Có trước có sau: ( Có thủy có chung): Khen người trước sao sau vậy, giữ vẹn tìnhnghĩa với người cũ.– Hiền như Bụt: Khen người nào rất hiền lành.– Lành như đất: Khen người nào rất hiền lành.– Ở hiền gặp lành: Ăn ở tốt với người khác thì lại có người đối xử tốt với mình.Khuyên sống hiền lành, nhân hậu thì sẽ gặp điều tốt đẹp may mắn.– Uống nước nhớ nguồn: Biết ơn người đã đem lại những điều tốt đẹp cho mình, sốngcó nghĩa có tình, thủy chung.– Gan vàng dạ sắt: Khen người chung thủy, không thay lòng đổi dạ.– Có trước có sau: ( Có thủy có chung): Khen người trước sao sau vậy, giữ vẹn tìnhnghĩa với người cũ.– Một miếng khi đói bằng một gói khi no: Khi người ta cần mà mình giúp thì việc ấycó giá trị hơn rất nhiều những gì khi mình cho mà mình cho người ta không cần.– Muôn người như một: Mọi người đều đồng ý như nhau, đoàn kết một lòng.– Nhường cơm sẻ áo: Nói lên tình cảm thân thiết giữa con người với nhau. Gúp đỡ, sansẻ cho nhau lúc gặp khó khăn hoạn nạn. Bên cạnh những thành ngữ mang ý nghĩa tốt cũng có không ít thành ngữ phê phánnhững thói xấu của một số người trong xã hội như :6– Con sâu bỏ rầu nồi canh: Một người làm bậy ảnh hưởng xấu đến cả tập thể.– Trâu buộc ghét trâu ăn: Nói những kẻ ghen ghét gièm pha người có quyền lợi hơnmình.2. Truyền thống trung thực , tự trọng.– Cây ngay không sợ chết đứng: Người ngay thẳng chẳng sợ sự gièm pha, bày đặt đểnói xấu hay chèn ép của kẻ ghen ghét. – Chết trong còn hơn sống đục: phương châm cao thượng của người biết tự trọng.– Chết vinh còn hơn sống nhục: đồng nghĩa với chết trong còn hơn sống đục.– Chết đứng còn hơn sống quỳ: đồng nghĩa với chết trong còn hơn sống đục.– Đói cho sạch, rách cho thơm: Dù đói khổ vẫn phải sống trong sạch, lương thiện.– Giấy rách phải giữ lấy lề: Dù nghèo đói, khó khăn vẫn phải giữ nền nếp.– Thẳng như ruột ngựa: Có lòng dạ ngay thẳng.– Tốt danh hơn lành áo: Danh dự thanh danh còn hơn cái vỏ bề ngoài.– Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng: Chê người vì một mối lợi nhỏ mà phẩm chất sasút.– Đục nước béo cò: phê phán kẻ cơ hội.3. Truyền thống biết ơn ,uống nước nhớ nguồn. Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về truyền thống biết ơn, uống nước nhớ nguồn. Truyền thống ấy được thể hiện qua việc biết ơn, kính trọng đấng sinh thành, tôn trọng 7người có lòng giúp đỡ, dìu dắt, dạy bảo ta nên người. Truyền thống ấy được cha mẹ, ôngbà răn dạy ngay từ thuở còn trong nôi, theo thời gian, truyền thống ấy được bồi đắp, giữ gìn rồi trở thành quan niệm sống, lối suy nghĩ, trở thành văn hóa của cả một dân tộc. Từ xưa đến nay, tryền thống uống nước nhớ nguồn luôn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua nhiều đời, nhiều thế hệ và vẫn luôn vẹn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Tục ngữ, thành ngữ về biết ơn gia đình, tổ tiên và những người có lòng giúp đỡ mình:– Ăn quả nhớ người trồng cây: nhớ ơn tổ tiên, ông bà.– Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy: nhớ ơn ông bà cha mẹ và người thầy.– Uống nước nhớ nguồn: luôn ghi nhớ công ơn, tổ tiên, gốc rễ.– Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu.– Chim có tổ, người có tông: – Lá rụng về cội.– Ơn trả nghĩa đền : phải biết ơn, ghi nhớ công ơn, đền đáp những người đã giúp đỡ mình.– Ơn sâu nghĩa nặng : ghi nhớ công ơn những người đã giúp đỡ mình– Tiên học lễ, hậu học văn : trước hết phải biết đạo lí, học cách đối nhân xử thế rồi sau đó mới học kiến thức.– Kính lão, đắc thọ : Tôn trọng, yêu quý người già thì được sống lâu.– Kính già, già để tuổi cho.– Tối lửa tắt đèn : mối quan hệ thân thuộc giữa hàng xóm, giúp đỡ nhau khi hoạn nạn.Ca dao tục ngữ thể hiện lòng kính trọng người thầy.– Không thầy đố mày làm nên.– Tôn sư trọng đạo: kính trọng thầy và coi trọng những kiến thức, cái đạo của thầy truyền lại, theo nho giáo.– Nhất tự vi sư, bán tự vi sư : một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy.– Một chữ nên thầy: đồng nghĩa với nhất tự vi sư bán tự vi sư.– Trọng thầy mới được làm thầy: phải kính trọng thầy thì mới có thể nhận được sự 8kính trọng từ người khác.– Tầm sư học đạo: tìm thầy, tìm người giỏi để theo học.
Không chỉ là những lời răn dạy con người ta biết nghe theo điều hay lẽ phải, thành ngữ, tục ngữ còn phê phán lối sống bất nhân bất nghĩa như:– Gieo nhân nào gặt quả ấy: một người luôn làm thiện tích đức sẽ gặp thiện báo còn làm ác sẽ gặp quả ác báo.– Gieo gió gặt bão: làm việc xấu thì phải gánh lấy hậu quả.– Có trăng quên đèn: phê phán lối sống phụ bạc, thiếu tình nghĩa, có cái mới thì quay ra rẻ rúng, vứt bỏ cái cũ.– Có mới nới cũ : đồng nghĩa với có trăng quên đèn.4. Một số thành ngữ khác về phẩm chất con người Việt.– Có chí thì nên: có ý chí nghị lực thì sẽ có ngày thành công.– Có cứng mới đứng đầu gió: Phải có dũng khí mới đương đầu được với mọi khó khăntrắc trở.– Chân cứng đá mềm: ý nói sức lao động của con người chiến thắng mọi khó khăn– Có công mài sắt, có ngày nên kim: Khuyên nên kiên trì, nhẫn nại làm việc, nhất định sẽcó kết quả tốt đẹp.– Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo. Khuyên phải cố gắng vượt mọi khó khăn để hoànthành nhiệm vụ.-Gan vàng dạ sắt: Dũng cảm, gan dạ, không nao núng trước khó khăn nguy hiểm.– Lửa thử vàng, gian nan thử sức: Khó khăn là điều kiện thử thách và rèn luyện mới biếtcon người có nghị lực, tài năng.9– Nước chảy đá mòn: Kiên trì, nhẫn nại sẽ thành công. CHƯƠNG 3 : DẤU ẤN VĂN HÓA DÂN TỘC QUA Ý NGHĨA BIỂU TƯỢNG CỦATHÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT NAM. Để tìm hiểu được dấu ấn văn hóa trong thành ngữ Việt Nam, ta cần có một sự sosánh giữa thành ngữ Việt Nam và một số nước khác.1. Ảnh hưởng của nền văn minh lúa nước. Do ảnh hưởng từ nền văn minh lúa nước, nên tục ngữ thành ngữ trong kho tàngvăn học nước ta cũng thể hiện rõ ràng dấu ấn của cư dân nông nghiệp, coi trọng nhữnghình ảnh thiên nhiên như gió mưa, sông, nước,…Người Việt ta có câu ” gieo gió gặtbão” để thể hiện triết lí mang tính nhân quả, những người làm việc ác sẽ nhận lại hậuquả tương ứng, hay như câu tục ngữ có ý nghĩa tương tự ” gieo nhân nào, gặt quả ấy”.Hình ảnh ảnh mang tính biểu tượng ở đây là ” Gió” và “bão”, đây là hiện tượng thời tiếtđặc thù của cư dân sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó, người Philipines có câu nóitương tự ” Nếu gieo những múi tên thì bạn sẽ gặt ưu phiền”. Điều này cho thấy tuy nướcta và Philipines có điều kiện địa lý tương tự, cũng hứng chịu nghiều thiên tai bởi gió bãonhưng tư duy ngôn ngữ của hai dân tộc khác nhau dẫn tới chất liệu của ngôn ngữ cũngkhác. Người Anh diễn đạt câu này bằng những câu sau: “sow the wind and reap thewhirlwind” hay ” we reap as we sow” hay ” he. Who sows the wind, will reap thewhirlwind”. Chúng ta còn thể hiện sự khác biệt về đặc trưng văn hóa- dân tộc qua nhóm hìnhảnh về động vật và thực vật. Trong câu tục ngữ :” đục nước béo cò”, hình ảnh con cò“béo” được ăn no nê ở chỗ nước “đục” với nội dung phê phán những kẻ cơ hội. Cò làcon vật gần gũi với cư dân nông nghiệp, đặc biệt là cư dân với nền văn hóa lúa nước.Hình ảnh con cò trong ca dao còn biểu trưng cho người nông dân thấp cổ bé họng, lam10lũ, chịu khó. Đây là hình ảnh mang đặc trưng của con người Việt Nam nói chung và cưdân lúa nước nói riêng. Như đã nói, thực vật cũng là một khía cạnh, chất liệu thường gặptrong tục ngữ, thành ngữ Việt Nam. Câu tục ngữ ” ăn quả nhờ kẻ trồng cây” hay ” lárụng về cội” đều mang đặc trưng ấy. Nhiều từ ngữ liên quan đến quá trình canh tác nôngnghiệp cũng được sử dụng rộng rãi như “gieo”, “gặt” trong “gieo gió gặt bão”, hay“trồng”, trong câu trên… đều thể hiện rõ đặc trưng của cư dân nông nghiệp.2. Ảnh hưởng của lối tư duy cộng đồng .Cái nhìn của mối dân tộc về cộng đồng, cá nhân và vai trò của chúng trong việcđịnh hình tính cách, văn hóa của mỗi nơi mỗi khác. Người Việt Nam còn mang nặng tưtưởng cá nhân không thể làm nên việc lớn và đề cao sức mạnh đoàn kết của tập thể, điềunày thể hiện rõ nét truyền thống dân tộc, ta có thể lí giải Việt Nam là một nước nhỏ,luôn phải đối mặt với thù trong giặc ngoài do vậy sự đoàn kết gắn kết giữa dân tộc đượcđề cao. Về triết lí này, người Việt ta có câu: ” Một cây làm chẳng nên non”, ngườiRuanda lại có câu ” một cây không làm nên ngôi nhà”, Trái lại, Người Anh lại có câu“Một con chim nhạn không làm nên mùa hè”. Người Việt Nam dùng hình ảnh ” non” ,người Ruganda lại dùng hình ảnh ” nhà” để thể hiện sự thành công, trong khi đối vớiđảo quốc sương mù thì mùa hè mới là mùa của thành công và hi vọng.Nhưng thành ngữ của tiếng Anh lại không mấy phổ biến về sự đoàn kết cộngđồng.Vì con người Anh và các nước phương Tây coi trọng sự độc lập, tự do cá nhân , sựđộc lập của bản thân mối người mang tính hướng ngoại nên trong thành ngữ cũng khôngcó nhiều câu mang tính đoàn kết cộng đồng, tập thể như ở Việt Nam, và tính cộng đồngđoàn kết không phải là đặc trưng mang tính văn hóa như trong văn hóa Việt.3. Lối tư duy duy tâm trong quan hệ xã hội.11 So sánh với tục ngữ trong tiếng Anh thì tục ngữ thành ngữ tiếng Anh chỉ tập trungphản ánh mối quan hệ xã hội mà ít đề cập tới mối quan hệ giữa thiên nhiên và kinhnghiệm sản xuất, đó là sự biểu hiện của một dân tộc có nền công nghiệp sớm phát triển,ít phụ thuộc vào tự nhiên. Trái ngược với nước ta, từ xưa đến nay luôn dựa vào canh tácnông nghiệp,coi nông nghiệp là điều kiện kinh tế chủ đạo. Điều này thể hiện trong gốc văn hóa du mục, thành ngữ Anh thể hiện tư duy phântích trong nhận thức, duy lý trong đối xử và coi trọng sức mạnh trong xã hội của ngườiAnh (phân định rạch ròi chức năng của từng loại động vật qua cách gọi ngay trongthành ngữ,…) trong khi người Việt giữ trong mình triết lý âm dương từ trong máu thịt,coi trọng nhân quả, đây là sự ảnh hưởng to lớn từ đạo phật và đạo khổng qua hàng ngànnăm. (Ví dụ: gieo gió gặt bão, nhân nào quả ấy, kính lão đắc thọ…), sống trọng tình vàcoi trọng kinh nghiệm sự khéo léo qua những thành ngữ chỉ văn hóa nhận thức tư duycủa mình ( ví dụ tư tưởng trọng lão: sống lâu lên lão làng, kính lão đắc thọ…).Đặc điểm của cư dân nông nghiệp còn thể hiện ở tính trào lộng, dân dã trong thànhngữ tục ngữ trong Tiếng Việt,trong khi so sánh với những ngôn ngữ khác như TiếngAnh thì lại trang nghiêm, mực thước, gần với ngôn ngữ bác học.Vì khác nhau cơ bảntrong nhận thức nên cách ứng xử, cư xử với xã hội của hai dân tộc lại càng khác nhau,Việt Nam tế nhị, hiếu hòa, linh hoạt trong xưng hô, giao tiếp (ví dụ: xưng khiêm hô tôn,học ăn học nói học gói học mở,…); người Anh thẳng thắn , lịch sự (ví dụ: as stiff/straight as a ramrod, as straight as a die,…); dân Việt trọng nông nghiệp (thành ngữmiêu tả công việc làm nông áp đảo những thành ngữ có sử dụng từ trong công hay thủcông nghiệp), còn người Anh trọng công nghiệp . 12C. KẾT LUẬN Sự liên hệ, so sánh trên đã phản ánh rõ dấu ấn văn hoá in đậm trong tục ngữ củadân tộc đó. Người ta có thể tìm thấy nhiều mặt của đời sống xã hội được phản ánh trongtục ngữ. Người Đức có câu “Quốc gia nào, tục ngữ nấy” hay “Người ta có thể đánh giámột quốc gia qua phẩm tính tục ngữ của quốc gia đó”. Cái riêng này chính là dấu ấnvăn hoá – dân tộc. Điểm chung của tục ngữ là từ ngữ ít, ý nghĩa hay và hình ảnh đẹp.Thế nhưng, giữa tục ngữ các dân tộc vẫn tồn tại những nét dị biệt. Nét dị biệt thể hiện ởcách tổ chức cấu trúc hình thức và lựa chọn chất liệu để biểu đạt nội dung triết lí tươngđồng. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Nam Á có nền nông nghiệplúa nước. Với tư cách là một loại hình văn học dân gian, tục ngữ Việt là tấm gương phảnánh kết quả tư duy, in đậm dấu ấn nền văn hoá nông nghiệp lúa nước, mang nét riêng sovới văn hoá của dân tộc khác. Tóm lại, có thể thấy chất liệu biểu trưng là một trongnhững nhân tố làm nên vẻ riêng và thể hiện đặc trưng văn hoá – dân tộc của tục ngữ cácnước.13TÀI LIỆU THAM KHẢO1 Ca dao Việt Nam về tình cảm gia đình. http://vi.wikiquote.org/wiki/Ca_dao_Vi%E1%BB%87t_Nam_v%E1%BB%81_t%C3%ACnh_c%E1%BA%A3m_gia_%C4%91%C3%ACnh.2. Hoàng Văn Hành, Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ, Nxb Khoa Học Xã Hội, 20023. Hoành Văn Hành và nhóm biên soạn, Thành ngữ học tiếng Việt, Viện Khoa Học XãHội Việt Nam, 2004 4. Hoàng Văn Hành, Về bản chất của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số1, 1976 . 5. PGS. TS Phan Mậu Cảnh , Đặc trưng văn hóa, cội nguồn văn hóa và sự thể hiệnchúng trong ca dao người Việt, 6. Ts. Nguyễn Văn Nở, Dấu ấn văn hóa- dân tộc qua chất liệu biểu trưng của tục ngữngười Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 3,2009.14
Bạn đang đọc nội dung bài viết Rồng Trong Ngôn Ngữ Và Văn Học Dân Gian Việt Nam trên website Altimofoundation.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!