Đề Xuất 3/2023 # Nguyễn Trãi – Người Con Toàn Thiện Của Dân Tộc, Danh Nhân Văn Hoá Nhân Loại # Top 11 Like | Altimofoundation.com

Đề Xuất 3/2023 # Nguyễn Trãi – Người Con Toàn Thiện Của Dân Tộc, Danh Nhân Văn Hoá Nhân Loại # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Nguyễn Trãi – Người Con Toàn Thiện Của Dân Tộc, Danh Nhân Văn Hoá Nhân Loại mới nhất trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

NHỮNG GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU THI CA VIỆT NAM

KỲ THỨ 5

NGUYỄN TRÃI

– NGƯỜI CON TOÀN THIỆN CỦA DÂN TỘC,

DANH NHÂN VĂN HOÁ NHÂN LOẠI

                                Kiều Văn

Trong thế kỉ XV, dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra một con người toàn thiện: Nguyễn Trãi (1380 – 1442). Nếu lấy sự toàn thiện làm tiêu chí thì Nguyễn Trãi xứng đáng là con người ưu tú nhất của dân tộc ta kể từ khi lập quốc (thời đại Hùng Vương) đến nay.

Ông chính là mẫu người mà thi hào Anh Shakespeare đã ca ngợi trong vở kịch Hamlet:

Đây con người, một con người toàn vẹn Chẳng bao giờ tôi thấy kẻ sánh ngang.

Lê Thánh Tông, ông vua anh minh, có câu thơ ca ngợi Nguyễn Trãi:

Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo.

(Ức Trai lòng dạ sáng sao Khuê).

Tiên nho Nguyễn Năng Tĩnh ở nửa cuối thế kỉ XIX đã viết một câu nổi tiếng trong lời tựa sách Ức Trai di tập (do ông cùng Dương Bá Cung và Ngô Thế Vinh sưu tầm lại những tác phẩm của Nguyễn Trãi đã bị tán thất, rồi đem in thành sách năm 1868): “Những người có tài trí lỗi lạc, đức độ bao la, khi đem tài đức ấy thi thố ra việc làm thì đó là sự nghiệp, khi thổ lộ ra lời nói thì đó là văn chương”.

Nhận định ấy đã được chính sử Việt Nam và sự nghiệp văn chương trác tuyệt của Nguyễn Trãi xác nhận.

Chúng tôi xin phân tích những phương diện đã làm nên sự toàn thiện của Nguyễn Trãi như sau:

NGUYỄN TRÃI – NHÀ ÁI QUỐC VĨ ĐẠI, ANH HÙNG DÂN TỘC

Sử sách còn ghi chuyện chàng thanh niên Nguyễn Trãi khóc theo cha đến tận ải Nam Quan khi cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt giải về Kim Lăng. Cuộc đời Nguyễn Trãi bắt đầu bằng thảm kịch “nước mất nhà tan”. Chính “mối hận Nam Quan” đã nhen nhóm ngọn lửa của lòng yêu nước thương nòi trong tâm khảm Nguyễn Trãi để một ngày kia nó bùng cháy thành hoả diệm sơn của một sự nghiệp anh hùng.

Trong những năm bị giặc Minh giam lỏng ở Đông Quan, Nguyễn Trãi đã kí thác niềm u uất và chí vọng của mình trong những bài thơ nôm:

Góc thành nam lều một gian No nước uống, thiếu cơm ăn… Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải, Góc thành nam lều một gian.

(Thủ vĩ ngâm)

… Một thân lẩn quất đường khoa mục, Hai chữ mơ màng việc quốc gia. Quân thân chưa báo, lòng canh cánh Tình phụ cơm trời, áo cha.

(Vô đề)

Nung nấu chí vọng “đền nợ nước, báo thù nhà”, khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi bèn trốn khỏi Đông Quan tìm vào Thanh Hoá gặp Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách, được Lê Lợi trọng dụng. Ông đã đồng cam cộng khổ với nghĩa quân Lam Sơn suốt mười năm kháng chiến. Một mình ông đảm trách cả một mặt trận quan trọng: mặt trận chính trị ngoại giao. Với sở học uyên bác, trí tuệ sắc bén, ông đã liên tiếp gửi thư cho bọn tướng giặc, đánh những đòn cân não làm tan rã tinh thần của chúng.

Cuối cùng Nguyễn Trãi đã thực hiện được ước mơ cháy bỏng của ông: đánh đuổi được giặc Minh, mang lại độc lập cho đất nước. Chính ông đã thay mặt Lê Lợi viết bản Bình Ngô đại cáo tổng kết chiến thắng oanh liệt của dân tộc:

Chẳng những mưu kế cực kì sâu xa Mà cũng xưa nay chưa từng nghe thấy. Xã tắc do đó vững bền, Non sông từ đây đổi mới. Trời đất bĩ rồi lại thái, Nhật nguyệt mờ rồi lại trong. Để mở nền thái bình muôn thuở, Để rửa mối sỉ nhục ngàn thu!

(Bản dịch trong Đại Việt sử kí toán thư)

Ngay cả khi bị bọn lộng thần đố kị, vu cáo, thậm chí bị hạ ngục, khiến ông buộc lòng phải hai lần xin về trí sĩ tại Côn Sơn, tấm lòng ưu quốc ái dân của ông vẫn không lúc nào nguôi:

Bui một tấc lòng ưu ái cũ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông.

(Thuật hứng)

Làm quan dưới hai triều Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông, ông đã ra sức chèo lái con thuyền của triều đình nhà Lê đi đúng con đường chính đạo mà tinh thần căn bản là thực hành nhân nghĩa để yên dân. Điều đặc sắc ở vị đại quan Nguyễn Trãi là khái niệm ái quốc luôn được cụ thể hoá bằng khái niệm ái dân, cận dân. Nói cách khác, với ông, chính lòng ái dân là thước đo tuyệt đối của lòng ái quốc! Có lẽ chỉ trừ một người thứ hai là vua Lê Thánh Tông, không một vị vua quan nào của triều Lê đạt tới ý niệm tuyệt vời đó. Và cũng chính vì tư tưởng khuynh dân đó mà Nguyễn Trãi trở thành thù địch của bọn quan lại triều Lê – những kẻ ít nhiều đều mắc căn bệnh vị kỉ và viễn dân. Có thể nói Nguyễn Trãi đã tử vì… tinh thần khuynh dân đó!

Trọn cả cuộc đời cống hiến cho nước, cho dân, lập được những kì tích sáng chói, Nguyễn Trãi trở thành một anh hùng dân tộc vĩ đại, kế tục truyền thống của Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo… đời trước, sát cánh với người anh hùng cứu nước Lê Lợi đương thời.

Chủ nghĩa anh hùng yêu nước của ông thể hiện rất rõ nét trong nhiều trước tác văn chương của ông như Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, thơ nôm và thơ chữ Hán mà sau đây là một bài tiêu biểu:

ĐỀ GƯƠM

Rồng ẩn Lam Sơn lúc đợi thời, Trong tay thế sự rõ mười mươi. Xoay đời, trời sáng sinh vua giỏi, Gặp bạn, hùm thiêng nổi gió tài. Hận nước nghìn năm vừa rửa sạch, Hòm vàng muôn thuở chắc không phai. Giang sơn đổi mới từ đây nhỉ, Thử đếm anh hùng được mấy ai?

Xuân Thủy dịch

NGUYỄN TRÃI – NHÀ CHÍNH TRỊ KIỆT XUẤT, BẬC HIỀN TÀI QUỐC GIA.

Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và cộng sự với triều đình nhà Lê với tư cách một nhà chính trị, một nhà mưu lược. Ông đã thi thố tài kinh bang tế thế trên các mục tiêu chiến lược: đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước, xây dựng triều đại Hậu Lê thành một triều đại hưng thịnh. Bên cạnh đó ông xây dựng một sự nghiệp văn chương kì vĩ.

Suốt cuộc kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi đã tỏ rõ ông là một nhà chính trị kiệt xuất có tầm tư tuởng cao nhất của thời đại bấy giờ. Đánh giặc đương nhiên phải dùng tới vũ dũng. Nhưng đối lập với những kẻ hữu dũng nhưng vô mưu, vô trí, vô nhân, Nguyễn Trãi, với tầm vóc của một nhà tư tưởng, nhà chiến lược quân sự, vị quân sư của Lê Lợi, đã cống hiến và đặt nền móng tinh thần, tư tưởng cho cuộc kháng chiến. Đó là tư tưởng nhân nghĩa mà ông rút từ học thuyết Nho Giáo của Khổng Tử nhưng được áp dụng một cách đầy sinh động và sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta lúc đó. Cao kiến ấy của Nguyễn Trãi, nhà Hồ cũng như nhà Hậu Trần trước đó đều không có được. Nó đáp ứng khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta đương thời, khiến cho tất cả mọi người Việt Nam từ bậc hào kiệt, giới sĩ phu, dân cày cuốc đến kẻ cùng đinh đều hướng về và quây quanh vị chủ tướng Lê Lợi. Muôn người cùng có chung một suy nghĩ lớn: NGHĨA, và một tình cảm lớn: NHÂN. Chính sự thống nhất cao độ về lí trí và tình cảm ấy đã tạo nên sức mạnh “chở thuyền lật thuyền”, khiến giặc Minh không thể nào chống lại nổi!

Tư tưởng nhân nghĩa trác việt ấy luôn luôn được Nguyễn Trãi triệt để cổ súy, nhấn mạnh ở mọi nơi, mọi lúc, trên chính trường, trên nghị luận và trong văn chương. Mở đầu Bình Ngô đại cáo – bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam thế kỉ XV – ông viết:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Chỉ với hai câu văn, Nguyễn Trãi đã xác định rõ ràng mục tiêu quang minh chính đại của cuộc kháng chiến chống Minh: đó chính là việc thực thi tư tưởng nhân nghĩa trong hoàn cảnh chống ngoại xâm. “Cẩm nang” nhân nghĩa là vũ khí tinh thần tối quan trọng cho nghĩa quân và nhân dân Đại Việt, đồng thời là độc tố làm rệu rã tinh thần của bọn giặc Minh xâm lược. Có thể nói Nguyễn Trãi đã sử dụng tài tình nghịch lí “gậy ông đập lưng ông”: ông dùng chính những luận điểm kinh điển của tư tưởng Trung Hoa từng được các bậc thánh hiền như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Mặc Tử… đúc kết mà bọn tướng Minh đều đã học thuộc nằm lòng, để quật lại chúng. Giặc Minh kéo sang An Nam với chiêu bài “chính nghĩa” là diệt nhà Hồ để khôi phục ngôi nhà Trần đã bị nhà Hồ thoán đoạt. Nhưng Nguyễn Trãi đã vạch rõ bộ mặt xâm lược phi nghĩa của chúng chỉ bằng một từ duy nhất: “bạo”! Chiêu bài “chính nghĩa” bị xé toạc, bộ mặt bạo ngược, bất nhân phi nghĩa của giặc bị phơi bày trước trời đất, trước toàn thể sĩ phu và nhân dân ta: chỉ riêng điều đó cũng đã đủ khiến chúng vô cùng hoảng sợ. Đòn cân não ấy xuất phát từ một khối óc thiên tài: Nguyễn Trãi.

Khác với rất nhiều vị vua và các tướng lĩnh giỏi của các thời đại, trong nước và trên thế giới, Nguyễn Trãi – xuất phát từ tư tưởng nhân nghĩa – hiểu thấu hơn ai hết cái chân lí lớn máu người không phải nước lã. Chính vì vậy, ông ra sức dùng đòn bút, đòn cân não để đánh giặc, nhằm làm giảm bớt tối đa xương máu của nghĩa quân Lam Sơn. Việc quân ta chủ trương trường kì vây hãm Đông Quan mà không ồ ạt tiến công hạ thành cũng chính nhằm bảo toàn lực lượng của ta, và kết quả thật kì diệu: giặc Minh rốt cuộc phải đầu hàng, còn nghĩa quân Lam Sơn hầu như không mất một mũi tên, một mạng người!

Ở phần cuối Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: “Ta coi toàn quân là hơn, để dân nghỉ sức”. Tinh thần nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đối với quân và dân ta nồng đượm biết chừng nào!

Là nhà tư tuởng tầm vóc nhân loại, Nguyễn Trãi chủ trương áp dụng nhân nghĩa cho tất cả những ai là con người chứ không riêng gì người An Nam. Một sáng kiến vĩ đại của ông là mang nhân nghĩa áp dụng ngay cả với kẻ thù! Ông chủ trương “mưu phạt tâm công, không chiến cũng thắng”. Ông chỉ muốn đánh vào tâm vào trí giặc khiến chúng bại vong rút về nước chứ không thích giết nhiều người. Ngay cả khi tính mạng giặc hoàn toàn nằm trong tay nghĩa quân, các lãnh tụ Lam Sơn đã hành động theo tinh thần “oai thần không giết, ta cũng thể lòng trời mở đức hiếu sinh”.

Khởi đầu bằng một cuộc đấu tranh vũ trang, nhưng nhờ có tư tưởng nhân nghĩa làm kim chỉ nam, phần cuối của cuộc kháng chiến chống Minh đã diễn ra bằng hình thức “đàm phán hoà bình”. Giặc Minh ở các lộ được tự do đến các chợ mua “đồ lưu niệm”, rồi tất cả lục tục kéo về Đông Quan để rút hết về nước. Không ai khác, chính Nguyễn Trãi là tác giả của hình thức kết thúc chiến tranh hiếm thấy đó trong lịch sử chiến tranh phương Đông.

Hiệu quả của hành động kết thúc chiến tranh bằng tư tưởng nhân nghĩa ấy thật vô cùng to lớn: một trang sử mới hoà hiếu đã mở ra giữa hai nước An Nam – Trung Hoa và duy trì suốt hơn bốn trăm năm cho đến khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta vào nửa cuối thế kỉ XIX (trừ một giai đoạn rất ngắn quân Thanh kéo sang nước ta theo lời kêu gọi của Lê Chiêu Thống nhưng lập tức bị vua Quang Trung tiêu diệt).

Từ xưa đến nay, chỉ những bậc đại nhân đại trí như Nguyễn Trãi mới chọn nhân nghĩa (hay chủ nghĩa nhân đạo) làm nền tảng cho sự nghiệp của mình. Họ chủ trương giải quyết những vấn nạn của nhân loại trên cơ sở lương tri cao cả của con người. Đối lập với họ là bọn bạo chúa của các thời đại (như phái pháp gia đời Tần hoặc Thành Cát Tư Hãn và Hốt Tất Liệt thời Nguyên Mông…) – những kẻ chủ trương xây dựng sự nghiệp trên xương máu và thảm hoạ của muôn dân mà thi hào Nguyễn Du đã mô tả bằng một câu “Dãi thây trăm họ làm công một người”. Con đường nào đúng? Đó là một câu hỏi hóc búa đòi hỏi phải có những kiến giải tối ưu đặt ra cho những người muốn đi tìm chân lí của môn lịch sử.

Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy tư tưởng nhân nghĩa trong thời bình, khi ông phụng sự dưới hai triều Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông thông qua việc tổ chức triều chính, ban hành các chính sách kinh tế xã hội… Đằng sau các lệnh chỉ của vua, của triều đình, người đọc sử có thể thấy rõ mồn một cái hạt nhân trí tuệ và tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Ví dụ các lệnh chỉ sau đây: tiến cử và tự tiến cử hiền tài; sát hạch trình độ của các quan văn võ trong toàn quốc; cấm rượu chè cờ bạc; đào tạo các con quan văn võ tại Trường quốc học; phân chia ruộng đất cho tất cả mọi người, từ quan đại thần đến người cùng đinh, đàn bà goá, trẻ mồ côi; cho phép các ngôn quan được dâng sớ vạch rõ những sai lầm khiếm khuyết của vua, đàn hặc những sai trái của các quan; cấm quan lại không được mở rộng đất đai ngoài mức triều đình qui định v.v…

Trong sớ tâu với vua Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi đã viết một câu bất hủ: “Xin bệ hạ yêu muôn dân để cho tận chốn thôn cùng xóm vắng không còn nghe thấy tiếng ta thán, thế mới là không mất cái gốc của nhạc”.

Những đóng góp của Nguyễn Trãi – nhà tư tưởng, nhà chính trị kiệt xuất, bậc hiền tài quốc gia – đã giúp cho triều đại Hậu Lê tiến bộ vượt bậc và đạt tới cực thịnh vào đời Lê Thánh Tông. Nguyễn Trãi xứng đáng sánh ngang với các nhà chính trị lỗi lạc của mọi thời đại.

NGUYỄN TRÃI – MỘT NHÂN CÁCH VĨ ĐẠI

Ngoài những cống hiến vô cùng lớn lao cho đất nước, Nguyễn Trãi được toàn thể dân tộc tôn vinh còn vì nhân cách cao cả của ông.

Con người có nhân cách là người biết tự trọng, quyết chí tu thân, có lí tưởng sống cao đẹp và suốt đời hành động theo lí tưởng đó.

Ngay từ khi còn rất trẻ, Nguyễn Trãi đã mang nặng hoài bão nhập thế giúp đời. Thiên tài của ông đã may mắn gặp được bậc minh quân, được trọng dụng trong công cuộc vĩ đại: đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại nền thái bình thịnh trị cho đất nước. Ông đã hào hứng viết:

Xoay đời, trời sáng sinh vua giỏi, Gặp bạn, hùm thiêng nổi gió tài.

(Đề gươm)

Tài năng và nhân cách của ông đã làm nên hình tượng người anh hùng của thời đại chống ngoại xâm.

Nhưng nhân cách ông càng thực sự sáng ngời trong những nghịch cảnh của đời ông diễn ra giữa thời bình nhưng đầy dẫy phiền lụy của một triều đại phong kiến. Ngay dưới triều Lê Thái Tổ, do những lời sàm tấu của lũ quan lại trong triều (vu cho ông tội âm mưu nổi loạn, cướp ngôi!), ông đã bị nhà vua hạ ngục. Trong nghịch cảnh ấy, ông đã nén lòng uất hận, đã đặt bi kịch cá nhân mình xuống dưới sự nghiệp lớn lao của nhà Hậu Lê, dưới nền thái bình của xã tắc:

Trung côi, ghét lắm, bao đau xót, Hoạ thực danh hư khéo nực cười. … Trong lao “độc bối” cam mang nhục, Cửa khuyết làm sao tỏ khúc nhôi?

(Than nỗi oan) – Thạch Can dịch

Mang cốt cách đại trượng phu, Nguyễn Trãi không bao giờ thoả hiệp, về hùa với những tà kiến của một số triều thần. Vì vậy, ông trở thành cái gai trước mắt họ. Bị họ bài xích, cuối cùng ông đành phải xin vua Lê Thái Tông cho về trí sĩ ở Côn Sơn (những năm 1437 – 1438). Lâm vào một nghịch cảnh mới, ông đã xử sự như thế nào?

Trước hết, ông nhận thức được “trong cái rủi có cái may”! Vì bị xua đuổi mà ông có được một dịp tốt nhất để chính mình chiêm nghiệm cuộc sống ẩn cư, từng được coi là điều tuyệt thú của bao hiền sĩ đời xưa, trong đó có ông ngoại của ông là Trần Nguyên Đán. Không chịu để cho bi kịch của cuộc sống thế tục đè bẹp, ông vươn lên tầm cao, hoà nhập vào đại tự nhiên cực kì diễm lệ. Hình ảnh của ông khác nào một tiên ông, một thánh nhân giữa núi non, mây nước, cây cỏ, chim muông:

Đủng đỉnh chiều hôm giắt tay, Trông thế giới phút chim bay. Non cao non thấp mây thuộc, Cây cứng cây mềm gió hay…

hoặc:

Thiêu hương đọc sách quét con am Chẳng bụt chẳng tiên ắt chẳng phàm. Ánh cửa trăng mai lớp lớp, Kề song gió trúc nồm nồm…

Trong những hoàn cảnh đặc biệt, người ẩn sĩ quay lưng lại với cuộc đời, khẳng định bản lĩnh và phẩm chất cá nhân của mình. Xét theo tinh thần của chủ nghĩa nhân bản, đó là một biểu hiện không những hợp lí mà còn tuyệt đẹp nữa. Vì vậy mà những ẩn sĩ như Bá Di, Thúc Tề, Sào Phủ, Hứa Do, Lã Vọng, Khổng Minh, Nghiêm Quang hay bọn “bát tiên”, “lục dật” ở Trung Hoa, hoặc Trần Nguyên Đán, Nguyễn Bỉnh Khiêm, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Khuyến ở Việt Nam… đã đi vào huyền thoại và trở thành điển cố.

Nguyễn Trãi đã nhiều lần khẳng định mình sau khi ông đã giải quyết xong bài toán hành – tàng, xuất – xử:

Ngán vòng thế tục thân danh hão, Quẳng cái phù sinh giấc mộng hờ. Tính khí một đời nguyên nếp cũ, Lênh đênh há giảm chí hào xưa!

(Đêm đậu thuyền ở cửa Lâm)

– Ngô Linh Ngọc dịch

Ngoài năm mươi tuổi, ngoài chưng thế, Ắt đã tròn bằng nước ở bầu.

hoặc:

Non lạ nước thanh làm náu, Đất phàm cõi tục cách xa. Cốt lạnh hồn thanh chăng khứng hoá (không chịu đổi).

Vận dụng triết lí Lão – Trang, sống thoát tục, Nguyễn Trãi càng nhận thức sâu sắc một chân lí của muôn đời:

Dưới công danh đeo khổ nhục, Trong dầu dãi có phong lưu.

Và ông hướng tới một lí tưởng mới: nếu không còn điều kiện để làm một quốc sĩ thì hãy làm một con người thật sự trong sạch và thánh thiện. Đó không phải là điều đáng mơ ước cho chúng sinh trong vòng ô trọc sao:

Phú quí chẳng tham, thanh tựa nước.

Tuy nhiên, đặc tính của một nhân cách lớn là tối kị lối sống “hư sinh” (sống thừa). nguyễn Trãi chính là biểu hiện rực rỡ của cái chân lí về người quân tử mà Kinh Dịch đã nói: “Trời chuyển vần mãnh liệt, quân tử cũng tự tạo sức mạnh mà không ngừng nghỉ.” (Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức). Trong thời gian ở ẩn tại Côn Sơn, ông đã làm bao nhiêu việc lớn lao vĩ đại, không hề thua kém việc ông tham gia kháng chiến chống Minh trước đó: tu thân, tìm ra triết lí sống mới, tổng kết những bài học về thế sự và nhân sinh, viết sách giáo khoa luân lí đạo đức, và sáng tạo cả một công trình vĩ đại về thi ca Hán – Nôm.

Ông hiểu thấu rằng luân lí, đạo đức, thuần phong mĩ tục… là nền tảng cho đời sống hạnh phúc lâu dài của con người. Vì vậy, ông đã trước tác một tác phẩm chuyên về luân lí đạo đức mang tên Bảo kính cảnh giới (Gương quí răn mình) trong đó ông đúc kết nên những khuôn vàng thước ngọc của nền đạo đức dân tộc. Những bài “đức dục” ấy của ông, trải qua năm sáu trăm năm, đến nay dường như vẫn còn nóng hổi và sát thực với chúng ta:

– Kết bạn, mạ (chớ) quên người cố cựu, Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang? – Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược, Có nhân có trí có anh hùng. – Cơm ăn miễn có, dầu thô bạc, Áo mặc âu chi quản cũ đen. – Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền, Cành bắc cành nam một cỗi nên. Ở thế nhịn nhau muôn sự đẹp… – Của thết người là của còn, Khó khăn, phải đạo cháo càng ngon. – Bất nhân vô số nhà hào phú, Của ấy nào ai từng được chầy (lâu)? – Sắc là giặc, đam làm chi? Trụ mất quốc gia vì Đát Kỉ Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi…

Không hề giáo điều với chủ nghĩa ẩn cư, khi được ông vua trẻ Lê Thái Tông mới lên ngôi mời ra giúp việc triều đình, Nguyễn Trãi lại vui vẻ “nhập thế”. Ông lại lao vào một cuộc chiến đấu mới hết sức gay go. Khi ấy nhà vua còn trẻ, lười học hành, ham chơi bời, sớm vướng víu chuyện thê nhi… Triều chính lục đục, nhất là chuyện phế lập thái tử, chuyện rắc rối giữa các bà phi… Với trách nhiệm của một bậc lương thần, ông ra sức chèo chống để hạn chế những hành động sai quấy của cả vua lẫn bọn quan lại trong triều. Chính vì vậy, ông trở thành tảng đá cản dòng đối với bọn gian thần. Cuối cùng, chúng lợi dụng cái chết đột ngột của Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên, vu cáo ông âm mưu giết vua và khép ông vào cái án tru di tam tộc!

Thảm hoạ và cái chết của Nguyễn Trãi phải được nhìn nhận như một hành vi tuẫn đạo của một bậc đại hùng đại đức, của một nhân cách vĩ đại. Nhân cách ấy vượt lên trên tầm của thời đại nhiễu nhương bấy giờ và hướng tới sự tất thắng của chân lí, đúng như những câu thơ ông viết:

Văn như vị táng dã quan thiên.

(Văn không tàn lụi cũng do trời)

Là một khai quốc công thần và đại thần của triều Hậu Lê, Nguyễn Trãi có thể dễ dàng đạt được tột đỉnh của vinh hoa phú quí, vậy mà ông đã khước từ tất cả và cuối cùng phải hi sinh đến ba họ chỉ vì chân lí, vì nhân nghĩa, vì nhân dân. Nhân cách cao thượng, trong sáng của ông quả có thể sánh với mặt trăng mặt trời.

NGUYỄN TRÃI – NHÀ VĂN HÓA VĨ ĐẠI

Từ xưa, loài người đã từng sản sinh ra một mẫu người vô cùng hiếm hoi: mẫu nhân tài bách khoa như Léonard de Vinci (1452 – 1519). Nguyễn Trãi của Việt Nam thuộc mẫu người đó. Ông đồng thời là nhà chính trị lỗi lạc, nhà bác học và nhà thơ vĩ đại. Ông nghiên cứu và có nhiều trước tác thuộc nhiều lĩnh vực của tự nhiên và xã hội như: quân sự (Quân trung từ mệnh tập), địa lí (Ức Trai dư địa chí), lịch sử (Lam Sơn thực lục), điển phạm của triều đình (Giao từ đại lễ), pháp luật của quốc gia (Luật thư – tác phẩm sau này được Lê Thánh Tông sử dụng làm nội dung căn bản của bộ luật vĩ đại: Bộ luật Hồng Đức), âm nhạc (ông là người tổng kết âm luật nhạc dân tộc để soạn ra quốc nhạc, chế định các nhạc cụ của ban nhạc triều đình, là tác giả chế tạo khánh đá), văn học (gồm cả văn và thơ chữ Hán và chữ Nôm).

Trong luận văn này, chúng tôi xin đi sâu trình bày về sự nghiệp thơ văn Hán và Nôm kì vĩ của ông.

Nguyễn Trãi là cây đại thụ toả bóng rợp ngàn năm cho hậu thế. Trước ông, thơ nôm đã xuất hiện và còn để lại chứng tích ở đời Trần với Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An, Trần Quí Khoáng, Nguyễn Biểu… (hầu hết tác phẩm của họ đã thất truyền). Những tác phẩm còn sót lại được viết khá bóng bẩy nhưng vẫn còn mang nặng khuôn sáo thơ cổ điển Trung Hoa.

Thơ quốc âm của Nguyễn Trãi là di sản quí báu nhất của thời kì sơ khai nền văn học dân tộc. Ông chính là một trong những “ông tổ thơ nôm” đã đặt nền móng cho nền thơ ca thành văn của dân tộc sẽ phát triển không ngừng ở các thời đại sau.

Kì tích đầu tiên của Nguyễn Trãi với thơ nôm là việc ông nhận thức được giá trị và chú tâm khai thác vốn từ ngữ của Tiếng Việt, một ngôn ngữ có đặc tính đẹp đẽ, tinh tế, biểu cảm, giàu tính tượng hình và thượng thanh, giàu âm điệu… Ông đã chọn lọc, sáng tạo thêm và sử dụng chúng trong thơ với tư cách là những từ ngữ văn học nôm đích thực như: quẩy trăng, ngại bước, thu lành lạnh, nguyệt chênh chênh, cây rợp, dửng dưng ca, hớp nguyệt, nguyệt hiện, thanh tựa nước, chim kêu cá lội, hoa xảy động, nguyệt đeo về, tổ ong tàng, núi láng giềng, mây khách khứa, say mùi đạo, đầy qua nóc, nặng với then, nắng quáng, cây im thưa thớt, gió khoan khoan đến, tơ vết, mồ hoang cỏ lục, cài lướt then, chân đi đủng đỉnh, vận xênh xang, nước biếc non xanh, đêm chờ hương quế, ngày lệ bóng hoa, nguyệt một vầng, thu vàng, tuyết bạc, ngàn núi xanh, nguyệt ba canh, lao xao chợ cá, dắng dỏi cầm ve, phơ phơ đầu bạc, leo lẻo doành xanh …

Ông cũng mạnh dạn chuyển ngữ sang tiếng Việt nhiều từ ngữ, thành ngữ gốc tiếng Hán để cho người Việt dễ hiểu như: tường đào ngõ mận, câu quạnh cày nhàn, đạp áng mây, tấc lòng ưu ái, câu mầu, non lạ nước thanh, biển hiểm, ẩn cả, ba thân, hỏi trăng, cả dùng, cởi buồn, dưỡng dỗ, đi nghỉ, lòng thế…

Một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi là việc thay thế những câu 7 âm tiết trong thơ Đường Trung Hoa thành những câu 6 âm tiết trong thơ nôm:

Góc thành nam lều một gian, No nước uống thiếu cơm ăn. Con đòi trốn dường ai quyến, Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn…

Không chỉ là bậc thầy sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ thơ nôm, Nguyễn Trãi còn tỏ rõ ông là nhà thơ nôm thiên tài của dân tộc. Những nhà thơ lớn nhất của các thời đại sau, xét theo quan điểm lịch sử, không ai có thể vượt nổi ông.

Hầu hết thơ tả cảnh của ông đều là những kiệt tác. Có những câu thơ cực kì tài tình khiến những nhà thơ hiện đại phải kinh ngạc, khâm phục như:

– Tà dương bóng ngả áp giang lâu, Thế giới đông nên ngọc một bầu. – Cửa song dãi xâm hơi nắng, Tiếng vượn vang kêu cách non. Cây rợp tán che am mát, Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn. Cò nằm hạc lặn nên bầy bạn Ủ ấp cùng ta làm cái con. – Đủng đỉnh chiều hôm giắt tay Trông thế giới phút chim bay. Non cao non thấp mây thuộc, Cây cứng cây mềm gió hay. – Trà tiên nước kín, bầu in nguyệt, Mai rụng hoa đeo bóng cách song. Gió nhặt đưa qua ổ trúc, Mây tuôn phủ rợp thư phòng. – Phơ phơ đầu bạc ông câu cá, Leo lẻo doành xanh con mắt mèo. – Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Những câu thơ như vậy đâu có thua kém những câu tuyệt tác nhất của thơ Đường Trung Hoa hay của bất kì một nền thơ ưu tú nào trên thế giới? Phải chăng đây đích thực là thứ thơ mà người đời gọi là thơ tiên?

Thơ tả tình của Nguyễn Trãi cũng tài hoa không kém: những rung động tinh tế nhất của tâm hồn nhà thơ thời xưa được diễn tả một cách thần tình:

– Loàn đơn (liều lĩnh) ướm hỏi khách lầu hồng: Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng! Ngoài ấy dù (nếu) còn áo lẻ, Cả lòng (rộng lòng) mượn đắp lấy hơi cùng! – Xuân xanh chưa dễ hai phen lại, Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên. – Vì ai cho cái đỗ quyên kêu? Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu. Lại có hoè hoa chen bóng lục, Thức xuân một điểm não lòng nhau…

Bằng thơ nôm, Nguyễn Trãi đã diễn đạt được một cách sắc sảo và đầy rung cảm thế giới tâm tư phong phú, phức tạp, nhiều uẩn khúc của ông: những khát vọng, tâm sự ưu thời mẫn thế, những nỗi đắng cay và cả nỗi buồn được chế ngự bởi cốt cách của một bậc đại trượng phu, một vị đại ẩn sĩ:

– Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải, Góc thành nam lều một gian. – Quân thân chưa báo lòng canh cánh, Tình phụ cơm trời, áo cha! – Bạn cũ thiếu, ham đèn mấy sách, Tính quen chăng, kiếm trúc cùng mai? – Liệu cửa nhà xem bằng quán khách, Đem công danh đổi lấy cần câu. – Lòng một tấc son còn nhớ chúa, Tóc hai phần bạc bởi thương thu. – Cội cây là đá lấy làm nhà, Lân các, ai hầu mạc (vẽ) đến ta? – Say mùi đạo, trà ba chén, Tả lòng phiền, thơ bốn câu. – Giang sơn cách đường ngàn dặm, Sự nghiệp buồn đêm trống ba. – Tuổi cao tóc bạc, cái râu bạc, Nhà ngặt (nghèo) đèn xanh con mắt xanh. – Lòng người một sự yêm (chán) chưng một, Đèn khách mười thu lạnh hết mười! – Bui một tấc lòng ưu ái cũ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông…

Thật diệu kì: những dòng tâm sự hàm chứa những nỗi đau buồn sâu xa ấy, đã sáu trăm năm rồi mà nay đọc lại, những kẻ hậu sinh nặng lòng thương xót vĩ nhân vẫn còn sa lệ!

Bằng khối óc mẫn tuệ của nhà hiền triết và sự trải đời ít ai sánh được, Nguyễn Trãi đã đúc kết trong thơ nôm rất nhiều triết lí thâm thúy. Một điều đặc sắc là thơ triết lí của ông không khô khan mà giàu cảm xúc nghệ thuật, khi đọc lên nghe tựa như những lời cảm thán với nhân tình thế thái:

– Dưới công danh đeo khổ nhục, Trong dầy dãi có phong lưu. – Có thân chớ phải (bị) lợi danh vây. – Nếu có ăn thì có lo, Chẳng bằng cài cửa ngáy pho pho. – Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc, Cho hay đường lợi cực quanh co! – Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn, Lòng người quanh nữa nước non quanh. – Sang cùng khó bởi chưng giời, Lăn lóc làm chi cho nhọc hơi? – Con cháu chớ hiềm (ngại) song viết (cơ nghiệp) ngặt (nghèo) Thi thư thực ấy báu ngàn đời. – Chỉn sá (rất nên) lui mà thủ phận. – Ngựa ngựa xe xe la ỷ (lụa là) tốt, Dập dìu là ấy chiêm bao. – Phượng những tiếc cao, diều hãy lượn, Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi. – Mã (chớ) trách thế gian lòng đạm bạc, Thế gian đạm bạc, đấy lòng thường!

Mang tầm vóc của một bậc thánh sư, Nguyễn Trãi đã dùng thơ nôm để truyền đạt đến đồng bào của ông những triết lí sống có giá trị nhất, đã góp phần đắc lực xây dựng nền đạo đức và nếp sống văn hoá của dân tộc ta trong thế kỉ XV mà ý nghĩa của nó sẽ được các thời đại sau kế tục.

Nguyễn Trãi là một trong những người khai sáng nền thơ nôm thành văn của dân tộc ta. Đồng thời, với thiên tài thi ca, ông trở thành nhà thơ tiếng Việt (thơ nôm) vĩ đại hàng đầu trong làng thơ Việt Nam kim cổ, là bậc thầy thơ nôm của tất cả nhà thơ các thời đại sau.

Không những là thi hào thơ nôm, Nguyễn Trãi đồng thời là văn thi hào chữ Hán lỗi lạc, để lại uy danh muôn thuở.

Bình Ngô đại cáo của ông đuợc coi là một áng “thiên cổ hùng văn”, một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài “Nam quốc sơn hà…” của Lí Thường Kiệt, đã làm phấn chấn tâm hồn người Việt suốt hơn 5 thế kỉ rưỡi qua.

Bài cáo nêu bật lí tưởng cứu nước cứu dân, tinh thần nhân nghĩa, trí tuệ, khí phách và ý chí dời non lấp biển của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Bằng lối văn biền ngẫu đặc trưng của văn chương cổ điển, bằng giọng văn khi lâm li khi hùng tráng, tác giả đã trình bày cặn kẽ lịch trình của cuộc kháng chiến, ca ngợi chiến thắng vô cùng hiển hách của dân tộc ta:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Từ Triệu – Đinh – Lí – Trần nối đời dựng nước, Cùng Hán – Đường – Tống – Nguyên hùng cứ một phương. Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt không bao giờ thiếu. … Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, Lấy chí nhân thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay… Nó trí cùng lực kiệt, chờ chết bó tay, Ta mưu phạt tâm công, không chiến cũng thắng. … Nó đã tham sống sợ chết, thực bụng cầu hoà, Ta coi toàn quân là hơn, để dân nghỉ sức. … Xã tắc do đó vững bền, Non sông từ đây đổi mới…

(Bản dịch trong Đại Việt sử kí toàn thư)

                                     Thư lại dụ hàng Vương Thông

… Nay các ông kế cùng sức tận, quân sĩ mỏi mệt, trong thiếu lương thực, ngoài thiếu viện binh, bám hờ khu đất nhỏ mọn, nghỉ tạm ở cái thành trơ trọi, chẳng phải như thịt trên thớt, như cá trong nồi đó sao? … Nay ta tính hộ các ông có sáu điều phải thua: – Nước lụt chảy, tường rào đổ sập, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất. – Nay những nơi quan ải hiểm yếu đều có quân và voi ta đồn giữ, nếu viện binh đến, thế tất phải thua, mà viện binh đã thua thì các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai. – Nước các ông quân mạnh ngựa tốt đều đóng cả ở đất Bắc phòng bị quân Nguyên, không rỗi ngó đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba. – Nước các ông luôn động can qua, liên tiếp gây sự đánh dẹp làm cho người ta sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư. – Nước các ông gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, mối hoạ bùng ra từ trong nhà. Đó là điều phải thua thứ năm. – Chúng ta dấy nghĩa binh trên dưới cùng lòng, anh hùng dốc sức, quân sĩ ngày càng luyện, khí giới ngày càng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc. Đó là điều phải thua thứ sáu. Nay các ông giữ một cái thành cỏn con để chờ sáu điều thất bại, tôi lấy làm tiếc cho các ông lắm!…

Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là thơ ở đỉnh cao, không thua thơ Đường, Tống. Cùng với những cây bút thơ chữ Hán cự phách của Việt nam như Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến…, thơ của ông đã góp phần quan trọng tạo dựng một nền thơ chữ Hán kì vĩ trong quá khứ trên đất nước ta.

Vì sao tổ tiên ta lại dùng chữ Hán để viết văn, làm thơ về những đề tài hoàn toàn thuộc đất nước và dân tộc ta? Theo thiển ý của chúng tôi, đó không phải một điều đáng mừng, đáng hoan nghênh như quan điểm của những đầu óc thiếu khả năng phán đoán và nắm bắt chân lí. Bởi còn gì tuyệt diệu hơn là dùng chính Tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ – để viết tác phẩm cho tất cả người Việt cùng nghe, cùng hiểu, không phải thông dịch? Do đó, việc phải tiếp tục dùng chữ Hán để trước tác văn chương cũng như dùng làm văn tự chính thức trong bộ máy hành chính quốc gia suốt bao nhiêu thế kỉ tự chủ (sau thời Bắc thuộc), chỉ là việc “không thể nào khác được” của dân tộc ta mà thôi. Trong một nghìn năm Bắc thuộc, bọn thống trị phương Bắc muốn biến nước ta thành quận huyện của Trung Hoa. Vì vậy mà chữ Việt cổ bị tiêu diệt, tiếng Việt bị khinh rẻ, bị gạt ra ngoài, Tiếng Hán (dưới dạng âm Hán – Việt) và chữ Hán đương nhiên giữ địa vị độc tôn. Phải mất vài thế kỉ của thời đại tự chủ, người Việt mới chế tác ra chữ Nôm để ghi chép tiếng Việt, bổ khuyết một lỗ hổng lớn của nền văn hóa dân tộc.

Trong hoàn cảnh “bất khả kháng” đó, Nguyễn Trãi cũng như các trí thức phong kiến khác, đã nhạy bén dùng chính chữ Hán để trước tác nên những tác phẩm thuộc đủ mọi lĩnh vực mang nội dung hoàn toàn Việt Nam. Và điều vô cùng đáng tự hào là những trước tác đó đã đạt tới trình độ tương đương với những trước tác chính cống của Trung Hoa. Chúng tôi xin trích dẫn một kiệt tác thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi:

Bạch Đằng hải khẩu

Sóc phong xuy hải khí lăng lăng, Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng. Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc, Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng. Quan hà bách nhị do thiên thiết, Hào kiệt công danh thử địa tằng. Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ, Lâm lưu phủ ý cánh nan thăng.

Cửa biển Bạch Đằng

Biển rung gió bấc thế bừng bừng, Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng. Kình ngạc băm vằm non mấy khúc, Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng. Quan hà hiểm yếu trời kia đặt, Hào kiệt công danh đất ấy từng. Việc trước quay đầu ôi đã vắng, Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.]

Nguyễn Đình Hổ dịch

Nội dung thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi cũng phong phú như thơ nôm của ông: Có bài hùng hồn giống như Bình Ngô đại cáo (ví dụ bài thơ trên), có bài mô tả thiên nhiên tuyệt mĩ:

Yên Sơn sơn thượng tối cao phong, Tài ngũ canh sơ nguyệt chính hồng. Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại, Tiếu đàm nhân tại bích vân trung…

(Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự)

[Trên dải Yên Sơn đỉnh tuyệt vời, Đầu canh năm đã sáng trưng rồi. Mắt ngoài biển cả ôm trời đất, Người giữa mây xanh vẳng nói cười…]

Khương Hữu Dụng dịch

Có nhiều bài hàm chứa những tâm sự thẳm sâu, những nỗi đau đời của một con người vô cùng cao thượng nhưng lại phải trải qua bao cảnh thăng trầm giữa cuộc đời điên đảo:

Phù trục thăng trầm ngũ thập niên, Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên. Hư danh thực hoạ thù kham tiếu, Chúng báng cô trung tuyệt khả liên!

(Oan thán)

[Biển tục thăng trầm nửa cuộc đời, Non xưa suối đá phụ duyên rồi. Trung côi, ghét lắm, bao đau xót, Hoạ thực danh hư khéo nực cười!]

Thạch Can dịch

Nguyễn Trãi từng có một nhận định sâu sắc: “Nước ta tuy ở xa ngoài Ngũ lĩnh, nhưng từ xưa đã nổi tiếng là một nước thi thư”. Ở thời đại ông, những tinh hoa của cái thi thư ấy kết tinh nơi ông, và ông có niềm tin sắt đá vào sự bất diệt của nó. Chính vì vậy mà khi lâm nạn, bị Lê Thái Tổ hạ ngục năm 1429, ông viết:

Số hữu nan đào tri thị mệnh,

Văn như vị táng dã quan thiên.

(Số khó lọt vành âu bởi mệnh, Văn chưa tàn lụi cũng do trời)

Nguyễn Trãi đã mang niềm tin ấy để ung dung đi vào cõi vĩnh hằng. Thiên ở đây là gì? Là chân lí vĩnh cửu.

Lịch sử đã chứng minh hùng hồn chân lí vĩnh cửu mà ông hằng ôm ấp. Sự nghiệp vĩ đại của ông về chính trị, quân sự, văn chương, và phẩm cách cao cả, danh hiệu “anh hùng dân tộc” của ông ngày nay đã được toàn dân tộc ta xác nhận, tôn thờ. Không chỉ thế, vào năm 1980, nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông, ông đã được cả loài người tôn vinh là danh nhân văn hoá thế giới.

Dân tộc ta xiết bao tự hào đã sản sinh ra một con người toàn thiện làm vẻ vang cho đất nước và dân tộc!

Ở Trung Hoa, những tác phẩm văn hoá lớn của các bậc thánh hiền được gọi là những bộ KINH như: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.

Thiết nghĩ toàn bộ trước tác bất hủ của Nguyễn Trãi rất xứng đáng với tầm vóc và danh hiệu một bộ KINH của người Việt để toàn dân tộc học tập, nghiền ngẫm trên con đường đi tới tương lai. Đó cũng chính là sự trả lời của hậu thế với câu hỏi da diết của ông:

Hậu học thùy tương tác chuẩn thằng? (Mực thước người sau học nữa chăng?)

Nguồn: http://newvietart.com

Ca Dao Tục Ngữ Về Danh Nhân, Anh Hùng Dân Tộc

Trong quá trình xây dựng đất nước nước ta đã trải qua rất nhiều thời kỳ khác nhau trong mỗi thời kỳ đều có những người tài và cống hiến đóng góp nhiều cho đất nước và sự phát triển chung của xã hội. Có rất nhiều danh nhân, anh hùng dân tộc được vinh danh và ghi nhận. Công trạng của họ còn được truyền miệng qua rất nhiều các câu ca dao tục ngữ để kể lại cho người đời sau. Ca dao tục ngữ về danh nhân hay và ý nghĩa nhất

Việt Nam là một đất nước có những con người kiên trung, có tinh thần yêu nước sâu sắc và vô cùng đáng quý. Những anh hùng hi sinh trong các cuộc chiến tranh, những người anh hùng đã hi sinh cả tuổi xuân, cả cuộc đời mình vì sự nghiệp độc lập dân tộc. bên cạnh những vị anh hùng ấy còn có những hậu phương vững chắc để họ quyết tâm tham gia chống giặc cứu nước là những người mẹ, người vợ vô cùng kiên trung.

Bà Trưng, Bà Triệu là 1 trong những danh nhân nổi tiếng và được nhiều người biết tới với công trạng chống lại giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước

Những vẻ đẹp của những người anh hùng ta không thể hiểu và thấu hết qua một vài câu chuyện, qua một vài lời giới thiệu. để nói lên vẻ đẹp đó thì các nhà văn nhà thơ đã nói lên những tình cảm của mình dành cho các vị anh hùng ấy qua các tác phẩm văn học, thơ,… bên cạnh đó còn có một thể loại thể hiện vẻ đẹo của các danh nhân, chúng ta cùng đi tìm hiểu về những câu ca dao tục ngữ nói về danh nhân.

Câu 1:

Ai về Hậu Lộc Phú Điền

Nhớ đây Bà Triệu trận điền xung phong.

Câu ca dao trên nói về một vị nữ tướng là Bà Triệu, bà là một trong những nữ tướng nổi tiếng của Việt Nam ta xưa. Bà Triệu là một nhân vật có tính cách mạnh mẽ, quyết tâm và có tinh thần yêu nước sâu sắc. Bởi thấy những khổ cực mà nhân dân ta chịu bà đã đứng lên để dành lấy độc lập của dân tộc, cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân.

Câu 2:

Ai lên Biện Thượng, Lam Sơn

Nhớ Lê Thái Tổ chặn đường quân Minh.

Câu ca dao trên nói về một vị vua rất nổi tiếng, người có tấm lòng nhân đạo và yêu thương nhân dân sâu sắc đó là vua Lê Thái Tông. Để nói đến công lao của vua Lê Thái Tông thi câu ca dao nhắc đến hai địa danh mà làm nên tên tuổi của vua Lê Thái Tông đó là Biên Thương và Lam Sơn. Hình ảnh oai hùng và kiên cường của vua Lê Thái Tông khi chống giặc ngoại xâm và trị vì đất nước vô cùng được nể phục.

Câu 3:

Có chàng Công Tráng họ Đinh

Dựng luỹ Ba Đình chống đánh giặc Tây

Đinh Công Tráng là một người được biết đến với tính cách trung trực, trật tự, kỉ luật và nghiêm nghị. Ông tham gia rất nhiều cuộc kháng chiến chống Pháp và giành được nhiều thắng lợi và đặc biệt là thắng lợi của khởi nghĩa Ba Đình chống giặc Pháp.

Câu 4:

Vĩnh Long có cặp rồng vàng

Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan Tuấn Thần.

Câu ca dao nói đến mảnh đất Vĩnh Long, một mảnh đất sinh ra anh hùng và nuôi dưỡng anh hùng. Một trong hai vị anh hùng nôi tiếng của vùng đất này đó là Bùi Hữu Nghĩa và Phan Tuấn Thuần. ngày nay người dân Vĩnh Long đã lập đền thờ để tưởng niệm hai vị anh hùng này.

Câu 5:

Gò Công anh dũng tuyệt vời

Ông Trương “đám lá tối trời” đánh Tây.

Câu ca nói đến mảnh đất Gò Công, Tiền Giang nói về một vị anh hùng mang tên Trương Quyền. ông đã tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp bởi những hình ảnh anh hùng và kiên cường ông đã ghi tên mình trong lòng bao người dân yêu nước.

Câu 6:

Phất cờ chống nạn xâm lăng

Trương Công nghĩa khí lẫy lừng trời nam.

Câu ca dao trên cũng nói về một người con của tỉnh Tiền Giang mang tên Trương Công Định. Trương Công Định đã cùng 25 nghĩa quân hy sinh tại mặt trận Kiểng Phước. Sự hi sinh ấy đã để lại bao nhiêu nể phục danh cho những người dân Việt Nam.

Tổng hợp những câu ca dao tục ngữ về danh nhân:

Cho mẹ gánh nước rửa bành cho voi

Muốn coi lên núi mà coi

Coi bà Triệu tướng cởi voi đánh cồng.

Cơm chẳng đầy nồi, trẻ khóc như ri.

Bao giờ Tự Đức chết đi,

Vỡ đường Thiệu Trị vỡ đôi năm liền

Mong cho thiên hạ lòng thuyền

Trong làng lại có chiếc thuyền đi qua.

Trách lòng Biện Nhạc chẳng minh

Làm cho con gái thất kinh thất hồn

Trách lòng biện Nhạc làm kiêu

Làm cho con gái nhiều điều phiền lo.

Trăng rằm mây phủ còn lu,

Tấm gương chị Lý nghìn thu sáng ngời.

Bô Bô nói với Phường Chào

Xem tôi với chị bên nào hiền hơn.

Hỏi thăm ông Hường Hiệu có còn hay không?

Thăng Long tấp nập trăm miền khơi thông

Vua Lý đã chọn đất rồng

Ngàn năm bền vững Thăng Long kinh kỳ

Tháp Mười đẹp nhất bông sen

Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ

Vài Hàng Nhớ Lại Bà Nguyễn Thị Mai Anh, Phu Nhân Của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Bà Nguyễn Thị Mai Anh, phu Nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sinh năm 1931, là con gái thứ bảy (nên còn có biệt danh Cô Bảy Mỹ Tho) trong một gia đình Công giáo ở Mỹ Tho có mười anh chị em.

Lúc còn niên thiếu, Phu Nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cùng người em gái Tám Hảo thường xuyên lên Sài Gòn để đi học và thăm thân nhân. Do gia đình quen biết với dược sĩ Huỳnh Văn Xuân, làm việc ở viện bào chế Trang Hai, hai chị em Bà được giới thiệu làm trình dược viên tại Viện bào chế Roussell. Chính ông Huỳnh Văn Xuân làm mai mối cho Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó đang đeo lon Trung úy) quen Mai Anh. Mặt khác, cậu Mai Anh là Đặng Văn Quang cũng là bạn đồng khóa Trường Võ bị Đà Lạt với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nên cả hai người được se duyên thành vợ chồng, dù có đôi chút trở ngại vì Mai Anh theo đạo Công giáo. Ông Bà chính thức làm lễ cưới vào năm 1951. Sau này, vào năm 1958, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mới rửa tội theo Công giáo.

Phu Nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn không can dự vào chính trường, mà chỉ chú tâm vào các hoạt động xã hội.Ở cương vị là Phu Nhân của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Bà rất thông cảm với sự thiếu thốn những trung tâm y tế phục vụ người dân. Vì thế, sau nhiều năm hoạt động xã hội, Bà Nguyễn Thị Mai Anh là người đã gợi ý và khởi xướng thành lập một bệnh viện phục vụ người dân ngay tại thủ đô Saigon.Bệnh viện Vì Dân tọa lạc tại ngã tư Bảy Hiền, thường được giới bình dân Sài Gòn hay kêu đó là bệnh viện Bà Thiệu. Bệnh viện được xây dựng do Bà vận động quyên tiền từ thiện của nhiều người bao gồm: Thân hào Nhân sĩ, Thương gia, Kỹ nghệ gia…Bệnh viện Vì Dân là bệnh viện tư nhân, nhưng được điều hành như bệnh viện công. Người dân vào khám và chữa bệnh được miễn phí hoàn toàn. Sau khi Bác Sỹ khám bệnh xong thì bệnh nhân được phát thuốc theo toa. Nếu ai bị bệnh nặng thì được nằm lại bệnh viện để chữa bệnh.

Lễ đặt viên đá đầu tiên đã cử hành ngày 17 tháng 8 năm 1971. Nhờ sự tín nhiệm và giúp đỡ của các nhà Hảo tâm, các Cơ quan Từ thiện trong nước và ngoại quốc, các Cơ quan quốc tế, và các quốc gia bạn, nên việc xây cất và trang bị các phương tiện y khoa được tiến hành một cách nhanh chóng và đầy đủ.Bệnh Viện Vì Dân được khánh thành ngày 20 tháng 3 năm 1973 với 400 giường bệnh và nhiều phân khoa khác nhau: khoa Ngoại và Nội trú, khoa giải phẫu, khoa xét nghiệm, khoa tai mũi họng, khoa quang tuyến, nhãn khoa, khoa nhi đồng, nhà thuốc tây…Bệnh Viện Vì Dân là bệnh viện lớn và tân tiến nhất ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Bệnh viên có nhiều vị Bác Sỹ và Y Tá chuyên môn, cũng như xử dụng những dụng cụ y khoa tân tiến nhất. Sau khi Bà Nguyễn Thị Mai Anh phát biểu trong buổi lễ, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng với Phu nhân cắt băng khánh thành.

Ngày 21 tháng 4 năm 1975, do những áp lực từ chiến trường, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức trên đài truyền hình. Sau đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cùng gia đình rời khỏi Việt Nam vào đêm 25 tháng 4 và bay tới Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch với tư cách là Đặc sứ của Việt Nam Cộng hòa. Lúc đầu cả gia đình sang sống tại Đài Loan, nơi trước đó ông Nguyễn Văn Kiểu, anh ông Thiệu làm Đại sứ.

Sau khi con trai thứ hai, Nguyễn Quang Lộc sang Anh Quốc học, thì cả nhà lại sang London định cư, và sống ở đó trong suốt 15 năm. Khi mấy người con sang Mỹ để tiếp tục con đường học vấn năm 1985, thì cả nhà cũng đến định cư tại thành phố Boston vì Bà Mai Anh muốn ở gần những người con của mình.Ông bà có 3 người con là:– Nguyễn Thị Tuấn Anh (Trưởng nữ)– Nguyễn Quang Lộc (Trưởng nam)– Nguyễn Thiệu Long (Thứ nam)

Ngày 29 tháng 9 năm 2001, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ trần tại Trung tâm Y tế Beth Israel Deaconess Medical Center thuộc thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ sau khi bị đột quỵ ở nhà. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu được an táng tại Boston. Lúc mất ông hưởng thọ 78 tuổi.

Phu Nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nói: ” Tôi mong có dịp về lại Việt Nam thăm mồ mả Ông Bà, và mang tro cốt của ổng (chồng, Nguyễn Văn Thiệu) về khi đất nước bình yên; Ông Già có trối rằng: “Nếu được thì đem chôn tại quê ông ở Phan Rang, nếu không thì rải một nửa xuống biển và một nửa trên núi “, Bà nói như vậy về ước vọng của Bà như một phụ nữ Việt Nam bình thường không quên ơn Tổ tiên dòng họ.

Một người từng làm việc trong Dinh Độc Lập dưới thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã nói về Bà như sau: “Tôi luôn luôn giữ lòng quý mến đối với Tổng thống Phu nhân. Bà lúc nào cũng giữ nếp sống bình dị của người đàn bà phúc hậu, bao dung của sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đối với tôi, Bà Thiệu là hình ảnh một người mẹ, một người vợ hiền đảm đang hơn là một vị Đệ Nhất Phu nhân sống trong tột đỉnh của quyền thế và nhung lụa giàu sang. Bà Thiệu là người đáng kính, không có cái kênh kiệu của một người có quyền thế vì Bà là một người đứng cạnh chồng, chỉ biết lo cho gia đình mà thôi.

Phu Nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thường đi ủy lạo Thương binh ở khắp bốn vùng chiến thuật cũng như tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Đồng thời bà còn tham gia rất nhiều hoạt động xã hội và từ thiện nữa. Nhận thấy xã hội còn nhiều nhiễu nhương nên Bà Nguyễn Thị Mai Anh, Phu Nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã thành lập “Hội Phụ Nữ Phụng Sự Xã Hội” vào ngày 1 tháng 6 năm 1968 để an ủi và giúp đỡ người dân. Bà nói: ” Xã hội bây giờ đang nhiễu nhương. Phụ nữ phải tham gia làm công tác xã hội với sự yêu thương và đồng cảm để có thể xoa dịu phần nào sự đau khổ của họ “.

Phu Nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu dành hầu hết thì giờ của mình để cứu trợ những người tỵ nạn chiến tranh, quả phụ mất chồng trong cuộc chiến và đặc biệt là những cô nhi bị bỏ rơi. Trong một lần đi thăm trẻ em mồ côi ở cô nhi viện Don Bosco tại Saigon thì Bà bồng một em bé lên, với khuôn mặt rạng rỡ và nụ cười rất tươi Bà nói với mọi người hiện diện rằng: ” Một trong những đặc ân mà tôi thích nhất là cái ngày mà tôi được quyền gọi các em cô nhi là các con của tôi. “

Nhân lúc bế giảng khóa học dành cho những bà vợ của thành viên nội các tại Dinh Độc Lập vào ngày 30 tháng 4 năm 1968, Phu Nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nói: ” Phụ nữ, ngoài nhiệm vụ ở hậu phương là yểm trợ tiền tuyến bằng cách giúp băng bó những vết thương mà còn có thể xông pha ngoài chiến trận để đánh giặc như Hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị nữa. Tôi nghĩ rằng phụ nữ nên tự nguyện học một khóa căn bản về quân sự để có chút hiểu biết hầu có thể giúp đỡ tiền tuyến lúc cần thiết “.

Không những thường xuyên đi hiến máu, Bà còn khuyến khích mọi người đi hiến máu như Bà. Năm nào Bà cũng tham dự ngày lễ diễn hành nhân ngày giỗ Hai Bà Trưng. Ngay cả hiện tại ở Mỹ Bà vẫn tham dự ngày lễ giỗ Hai Bà hằng năm.

Mặc dầu là vợ của một Tổng Thống, nhưng vì sinh trưởng ở Mỹ Tho, nên giọng nói và tánh tình của Bà hiền hậu và dễ thương như những người sinh trưởng ở miền Nam.

Vào năm 1972, một người Hoa Kỳ làm việc tại Việt Nam đã xin phép lấy tên Bà Nguyễn Thị Mai Anh đặt cho một giống Lan: Brassolaeliocattleya Mai Anh. Nhân dịp này tên của Bà Đinh Thúy Yến (Phu nhân Thủ tướng Trần Thiện Khiêm) cũng được đặt tên cho một giống Lan: Brassolaeliocattleya Dinh Thuy Yen.

Năm 2009 Bà dọn qua sống với gia đình con trai là anh Nguyễn Quang Lộc tại Orange County thuộc tiểu bang California vì Bà muốn ở gần con cháu của mình. Bây giờ Bà đã lớn tuổi nên sức khỏe của Bà không còn được như xưa.

Người viết : David Tran

Kinh Thiện Ác Nhân Quả

Chính tôi được nghe một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rặng cây Thái tử Kỳ Ðà.

Khi bấy giờ đức Thế Tôn thuyết pháp, có vô lượng Bồ Tát, trời, người đại chúng vây quanh, yên lặng một lòng nghe nhận. Lúc ấy A Nan tôi vì chúng sanh nên bạch Phật rằng: “Kính lạy đức Thế Tôn! Nay thấy thế gian cùng một giống sanh trong đạo người, có kẻ đẹp, kẻ xấu, người mạnh, kẻ yếu, kẻ nghèo, người giàu, kẻ khổ, người vui, kẻ sang, người hèn, âm thanh bất đồng, ngôn ngữ khác nhau, có người sống lâu trăm năm chẳng chết, người ba mươi tuổi đã tử vong, kẻ mười lăm tuổi chết yểu, cho đến trẻ nhỏ bị bào thai đọa lạc. Có người đoan chánh, có kẻ bần hàn, có người xấu xí mà giàu sang, kẻ rất mạnh khoẻ mà thấp kém, Có người nhu nhược mà lên ngôi cao, có người khổ mà sống lâu, kẻ vui mà chết sớm, có người làm lành mà hay gặp nhiều điều khốn quẫn; kẻ làm ác lại gặp phước lợi, kẻ béo trắng lại mắt lác, kẻ xanh đen mà lại tươi đẹp, có người tuy lùn bé mà đủ ý chí cao thượng, có người tuy cao lớn mà phải làm đứa ở đê hèn, có người nhiều con trai con gái, có kẻ cô đơn một mình, có kẻ ly gia hương đói rét lang thang, có kẻ được vào cung vua ăn mặc tha hồ, có ngườì lúc trẻ thì nghèo hèn đến lúc già lại giàu sang, có người thực là vô tội lại bị bắt bớ giam hãm trong tù ngục, có nhà cha từ con hiếu, luận kinh giảng nghĩa, có nhà anh em bất hòa đấu tranh ngang trái, có người nhà cửa đàng hoàng gia sản đầy đủ, có kẻ không cửa không nhà nay đây mai đó, gửi thân nơi đất khách quê người, sống một cách phiêu lưu khốn cực, có người ở như ổ quạ hang hưu giống loài ly thú, cũng có hạng người ăn thịt sống uống máu tươi, mặc áo da lông không biết văn tự, có người an nhàn hưởng phước báo, có kẻ đi làm mướn không ai thuê, có người thông minh cao sáng, có kẻ dốt nát ngu si, có người kinh doanh mới được, có kẻ chẳng cầu tiền của tự đem lại, có kẻ giàu mà tham xẻn, có người nghèo lại rộng lòng bố thí.

Có người lời nói ngọt ngào, có kẻ tiếng nói ra như gai góc, có kẻ được nhiều người ái kính, có kẻ bị mọi người xa lánh, có người từ tâm nuôi mạng chúng sanh, có kẻ sát sanh không nương tay, có người khoan dung đại lộ, lại đắc nhân tâm, có kẻ bị dân chúng bỏ rơi.

Có nhà nàng dâu mẹ chồng ghét nhau, có nhà chị em dâu vui vẻ hòa hợp. Có người ham nghe pháp ngữ, có kẻ nghe kinh buồn ngủ, có hạng vũ phu vô lễ, có người hiếu học văn chương, có kẻ hay bắt chước dáng điệu những loài súc sanh. Cuối xin đức thế tôn nói rộng nhân quả cho đại chúng đây nghe mà nhất tâm hành thiện!

Khi bấy giờ đức thế tôn bảo A Nan tôi rằng: Như ngươi hỏi ta chúng sanh thọ báo bất đồng là do đời trước dụng tâm khác nhau, vì thế cho nên muôn sai vạn biệt. Người đời nay được than tâm đoan chánh, là do đời trước ở trong đạo người tu hành nhẫn nhục mà được.

Khi đó A Nan tôi bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Theo như lời Phật nói phạm vào của chúng tăng thật là tội rất nặng, nếu như thế thì bốn chúng đàn việt làm sao mà đến chùa mà cung kính lễ bái được?”

Phật nói: “Người đến chùa tăng có hai thứ tâm: một là thiện tâm, hai là ác tâm.

Thế nào là thiện tâm? Người đến chùa tăng thấy Phật thì lễ bái, thấy tăng thì cung kính, thỉnh kinh hỏi nghĩa và thọ giới sám hối, bỏ tiền của ra xây cất chùa chiền, kiến lập Tam Bảo, không tiếc thân mạng, hộ trì chánh pháp. Những người như thế cất chân một bước tức là bước thiên đàng, đời vị lai hưởng phước như cây Ðề Gia, đó gọi là người tối thiện.

Thế nào là ác tâm? Có những chúng sanh khi tới chùa, chỉ dòm ngó xin chúng tăng như là đòi mượn tiền mượn của hoặc chỉ trích chư tăng, vạch tỏ những lỗi lầm chuyên chủ phá hoại mà thôi, hoặc ăn của tăng không có tâm hổ thẹn, nào bánh quả, rau đậu, cắp mang về nhà, những con người như thế chết đọa vào địa ngục Thiết Hoàn, vạc nước sôi, lò than, núi dao, rừng kiếm phải bị trừng phạt, đó tức là kẻ tối hạ ác nhân!”

Phật lại dặn A Nan tôi rằng: “Phải răn bảo cho đệ tử của ta đời mai sau, khi đến chùa phải cẩn thận chớ phạm của Tam Bảo, phải gắng sức tôn sùng thành thật, chớ có thoái tâm, nghe lời Phật, tới khi ngài Di Lặc xuất thế quyết định được độ thoát không nghi ngờ”.

Phật nói: Phật nói: Phật nói:

Phật lại dạy A Nan tôi rằng: “Như trên ta đã nói rất nhiều các sự đau khổ, đều là do nghiệp thập ác mà ra, thượng là nhân duyên địa ngục; trung là nhân duyên súc sanh; hạ là nhân duyên ngạ quỷ.

Khi bấy giờ trong đại chúng, có người đã tạo nghiệp thập ác, nghe Phật nói khổ báo của địa ngục như thế, tự kêu khóc sợ hãi mà bạch Phật rằng:

” Lạy đức Thế Tôn, đệ tử chúng con phải làm hạnh gì mà được thoát khỏi khổ ấy, cuối xin đức Thế Tôn chỉ bảo cho ?”

Phật nói: “Các ngươi hãy giáo hóa hết thảy chúng sanh chung làm nghiệp phước, thế nào là tu phước?

Nếu có chúng sanh nào đời nay làm một người Ðại hóa chủ đứng ra xây cất chùa, tháp, tịnh xá đời vị lai được phước làm quốc vương thống lãnh vạn dân khắp nơi đều quy phục.

Ðời nay làm Ấp vương trung chánh, duy na, luân chủ, đời sau sẽ được làm vương thần, phụ tướng, châu quận đầy đủ tôn sang.

Ðời nay khuyến hóa nhiều người làm các việc công đức, đời vị lai sẽ được làm trưởng giả giàu sang, mọi người kính nể bốn đường khai thông.

Ðời nay hay đốt đèn nối sáng, đời sau sanh vào cung trời Nhật Nguyệt Quang Minh tự chiếu soi.

Ðời nay hay làm việc bố thí và từ tâm nuôi dưỡng sanh mạng, đời sau sanh nơi giàu có ăn mặc tự nhiên.

Ðời nay hay cho người thức ăn uống, đời sau nơi sanh bếp trời tự đem lại, sức lực đầy đủ, thông minh, trí huệ, biện tài, thọ mạng lâu dài.

Cho thức ăn loài súc sanh được bách bội báo, cho thức ăn kẻ nhứt xiển đề được ngàn bội báo.

Cúng dường thầy tỳ kheo trì giới được vạn bội báo, nếu cúng dường các vị Pháp sư lưu thông Ðại Thừa giảng tuyên tạng bí mật của Như Lai, khiến cho đại chúng khai thông tâm mắt được vô lượng báo. Cúng dường Bồ Tát chư Phật thọ báo vô cùng. Cúng dường ba bậc người phước báo vô tận: một là chư Phật, hai là cha mẹ, ba là bệnh nhân.

Một lần cúng món ăn mà được phước báo vô lượng như thế, nếu hay thường cúng dường phước ấy bao giờ vô cùng tận được?

Ðời nay xối nước tắm cho chúng tăng, đời sau sanh chốn áo mặc tự nhiên, có mọi người kính nể, thân hình đoan chánh, mặt mắt tươi đẹp.

Ðời nay tán dương Phật và ham đọc tụng kinh pháp, sanh thân đời sau tiếng nói hòa nhã nhiệm mầu, ai nghe tiếng cũng vui mừng.

Ðời nay hay giữ giới, sanh thân đời sau đoan chánh oai nghi, là bậc tối thắng trong loài người.

Ðời nay hay đào giếng hoặc để chum, để thùng nước cho người qua lại dùng, trồng cây bên đường cho người nghỉ mát, đời sau sanh xứ nào cũng làm thân vương, trăm mùi ăn uống nghĩ tới là có đưa lại.

Ðời nay hay viết chép kinh pháp cho người đọc, đời sau sanh xứ nào miệng biện đa tài, học pháp gì, nghe qua một lần thấu hiểu, chư Phật Bồ Tát thường gia hộ, là tối thắng trong loài người và thường làm bậc Thượng Thủ.

Ðời nay hay bắt cầu, hoặc chở thuyền cho người qua sông, đời sau sanh xứ nào đều có đầy đủ bảy báu, mọi người khen kính và chiêm ngưỡng, đi lại ra vào được người nâng đỡ.

Khi đó A Nan tôi bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn, kinh này gọi là gì và khuyến phát thế nào cúi xin ngài chỉ giáo”.

Phật bảo A Nan tôi rằng: “Kinh này tên Thiện Ác Nhân Quả, cũng gọi là kinh Bồ Tát Phát Nguyện Tu Hành, thọ trì như thế”.Khi Phật nói kinh xong, trong chúng có tám vạn người, trời phát tâm A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề và có trăm ngàn người con gái chuyển thành nam. Một ngàn hai trăm ác nhân bỏ ý ác biết đời trước của mình. Vô lượng trời người được vô sanh nhẫn, thường được hưởng khoái lạc. Vô lượng thính giả sanh các cõi Tịnh Ðộ cùng được làm bạn với chư Phật Bồ Tát. Hết thảy đại chúng về nhà làm phước, hoan hỷ phụng hành.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Nguyễn Trãi – Người Con Toàn Thiện Của Dân Tộc, Danh Nhân Văn Hoá Nhân Loại trên website Altimofoundation.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!