Đề Xuất 6/2023 # Một Cách Nhìn Khác Về Chiến Tranh Trong Trường Ca Và Thơ Việt Nam Hiện Đại # Top 15 Like | Altimofoundation.com

Đề Xuất 6/2023 # Một Cách Nhìn Khác Về Chiến Tranh Trong Trường Ca Và Thơ Việt Nam Hiện Đại # Top 15 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Một Cách Nhìn Khác Về Chiến Tranh Trong Trường Ca Và Thơ Việt Nam Hiện Đại mới nhất trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1. Giai đoạn ba mươi năm chiến tranh cách mạng 1945 – 1975, thơ viết về cuộc kháng chiến của dân tộc là tiếng hát tự hào của cái “ta” nhân danh dân tộc, nhân danh chính nghĩa. Thơ viết về chiến tranh giai đoạn này là một “dàn đồng ca” với âm hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Thơ đã trở thành vũ khí chiến đấu, cất lên thành lời kêu gọi, thành khẩu hiệu, mệnh lệnh tiến công. Chúng ta thường thấy hình ảnh của những con người xả thân để bảo vệ Tổ quốc. Người lính lên đường với khát vọng chiến đấu và chiến thắng. Cuộc chiến tranh càng lan rộng và quyết liệt thì thơ càng bám sát đời sống, mở ra khả năng chiếm lĩnh thực tại phong phú, đa dạng của hiện thực chiến tranh. Các nhà thơ đã mang đến cho thơ giọng điệu đầy nhiệt huyết của một thế hệ sẵn sàng gánh vác sứ mệnh lịch sử theo tiếng gọi của Tổ quốc: Ơi tuổi thanh xuân/ Mang bốn ngàn năm lịch sử trong tim/ Ta sung sướng được làm người con đất nước/ Ta băng tới trước quân thù như triều như thác/ Ta làm bão làm giông/ Ta lay trời chuyển đất/ Ta trút hờn căm đã làm nên những vinh quang bất diệt/ Sức mạnh bốn ngàn năm đã biến thành bão lửa ngút trời (“Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi” – Nam Hà). Thơ chống Mĩ có dáng dấp một dàn đồng ca, một dàn hợp xướng lớn bởi nó được sinh thành trong một bối cảnh tinh thần đặc biệt của “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt” (Chế Lan Viên), và khi nhà thơ “tự hát” thì cũng ý thức được: Nhưng giọng anh đơn lẻ/ Sánh sao bằng đồng ca (“Nhớ đồng ca, hát đồng ca” – Phạm Tiến Duật). Chính vì thế, thơ trong thời kì chiến tranh chủ yếu thể hiện tinh thần lạc quan, nén lại những nỗi niềm riêng tư, nhằm vào mục đích chiến đấu chống lại kẻ thù: Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng/ Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay (“Đi trong rừng” – Phạm Tiến Duật). Cũng viết về cuộc chiến tranh đã đi qua, nhưng sau năm 1975, các nhà thơ đã hướng tới những số phận, khắc họa được những nỗi đau mất mát, nó thấm thía và lay động lòng người hơn trước. Nỗi buồn được cảm thông và chia sẻ trong thơ họ rất thật, nó mệt mỏi, nhức đau như chính sự tàn khốc của chiến tranh. Thơ của họ như bản giao hưởng của rất nhiều khái niệm, cảm giác, suy ngẫm và ý tưởng, cùng tấu lên tràn đầy sức tưởng tượng lạ lẫm. Những “nỗi buồn chiến tranh” để lại không ít vết thương trong trái tim nhà thơ. Sự thật khắc nghiệt mà họ phải nếm trải đã dội đập vào thơ họ đến tức ngực, làm thơ họ bừng tỉnh. Đọc thơ họ, ta như được tham dự vào những nỗi khổ đau và hi vọng đã làm nên gương mặt của mỗi số phận. Các nhà thơ đã dựng lên được chân dung tinh thần của một thế hệ cầm súng với ý thức công dân, ý thức trách nhiệm trước Tổ quốc; khẳng định và tự hào đối với những sự kiện lớn, những chiến công vĩ đại của dân tộc; hồi tưởng về sự hi sinh tột cùng đau đớn: Năm tháng chúng tôi đi cánh rừng xao xác lá/ Trước mặt đạn bom, sau lưng cũng đạn bom/ Tiểu đoàn tôi ba trăm người tất cả/ Chỉ còn năm, khi về tới Sài Gòn (Mùi nhang đêm giao thừa – Văn Lê); Nếu tất cả trở về đông đủ/ Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn (“Gửi sư đoàn cũ” – Nguyễn Đức Mậu). Trong quá trình tiếp cận những tác phẩm văn học Việt Nam viết về chiến tranh, Gabrielle Schrader – một người Mĩ đã có nhận xét: “Về mặt lịch sử, văn học chiến tranh Việt Nam đã cung cấp cho các nhà sử học và xã hội một bức tranh sáng rõ về thực tế của cuộc chiến… Văn học Việt Nam viết về chiến tranh thực sự đã chạm đến trái tim người Mĩ”(1). Thật vậy, khác với cách viết về chiến tranh trong thời chiến, văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh đã có hướng khai thác mới mẻ hơn. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa nhân đạo, chiến tranh đã được nhìn nhận như một biến cố bất thường, phi nhân đạo bởi những mất mát, bi thảm trong số phận con người. 2. Chưa bao giờ nhu cầu đi tìm một tiếng nói riêng lại được đặt ra cấp thiết như hiện nay. Thơ trước đây cũng mỗi người một vẻ, nhiều giọng điệu, nhưng đó là sự phong phú, đa dạng của một nền thơ thống nhất trên cùng một cảm hứng trữ tình công dân, còn hiện nay sự đa dạng về giọng điệu xuất phát từ nhu cầu khẳng định cá tính và nhận thức hiện thực thông qua số phận cá nhân. Tác giả của các bản trường ca về đề tài chiến tranh giữ nước hầu hết đều là những người trong cuộc, là những người lính gắn bó với chiến trường. Những gì mà họ phản ánh trong trường ca đều là những điều mắt thấy tai nghe. Họ đã từ hiện thực chiến tranh để viết về chiến tranh với biết bao cung bậc cảm xúc. Trong thời chiến các nhà thơ phần lớn thường có tâm thế hướng ngoại khi nói về nhân dân, đất nước cùng với những sự kiện có tầm vóc lịch sử. Trữ tình cá nhân đã nhường chỗ cho trữ tình công dân nên tác phẩm trường ca thường mang dáng vóc và âm hưởng sử thi. Thời kì hậu chiến, hiện thực chiến tranh vẫn là nguồn cảm hứng vô tận của những nhà thơ mặc áo lính, nhưng giờ đây khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo đã cho người viết được khai thác và thể hiện đến tận cùng mọi cảnh huống ngặt nghèo, bi đát nhất của chiến tranh. Chiến tranh được tái hiện trong dòng hồi ức kỉ niệm của ý thức và cả phần vô thức. Giọng điệu một số bản trường ca có khuynh hướng thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện như trong trường ca truyền thống không còn là điều quan trọng, nhưng bao giờ yếu tố tự sự cũng có vai trò nổi bật. Chủ thể sáng tạo không chỉ đóng vai trò là người thư kí trung thành của thời đại mà còn là người phát ngôn của cộng đồng thông qua tiếng nói cá nhân. Về điều này nhà thơ Thanh Thảo đã viết: “Ai sẽ nói thay họ trong khoảnh khắc, trong sự mong manh… nếu không phải là nhà thơ. Nâng cây đàn lyre của vô thức tập thể, nhà thơ hiện đại có thể sững sờ khi những dòng thơ của mình bỗng trào lên nhiều giọng điệu, nhiều tiếng nói, và tự nhiên nó có hình thức của một phức hợp nghệ thuật”(2). Nhìn chiến tranh từ góc độ cá nhân, các tác phẩm viết về đề tài này không chỉ “làm sáng rõ những cội nguồn sâu xa nhất đã làm nên sức mạnh thúc đẩy cuộc chiến đấu trường kì của nhân dân ta tới chiến thắng” (Thiếu Mai) mà còn nêu được những tổn thất, mất mát của dân tộc mà trước đây văn học chưa có điều kiện phản ánh. Khảo sát qua một số tác phẩm có thể thấy rõ hơn những đặc điểm này. Trong trường ca “Gọi nhau qua vách núi” của Thi Hoàng số lượng các phần, các trang viết về chiến tranh không nhiều nhưng khá ấn tượng. Phần thứ nhất Hoa với chuyện của ba người và chuyện của nhiều người là phần có nhiều sáng tạo. Ba chữ cái A.B.C đã được tác giả sử dụng cho ý đồ nghệ thuật của mình rất hiệu quả. Có khi đó là hình ảnh cụ thể của người lính thời chống Mĩ: Có một đám tang chỉ có ba người/ Kể cả người đã chết/ Trong góc rừng miền tây xa tít tắp/ Nước trong lòng suối lặng lờ trôi/ Chiều lạnh và trong như ngàn vạn mảnh thuỷ tinh tan vỡ/ Những giọt nước mắt khô long lanh sắc cứa/ A và B khóc C trong một tổ ba người. Có khi đó là biểu tượng mang tính ước lệ, là anh, là tôi, là những người còn sống hoặc đã khuất: A.B.C thành một cánh rừng rồi/ Cánh rừng yêu thương lá tìm lá đan cài vấn vít/ – A là anh tôi như thể là B/ Mình thực có hay là không có thực/ Mình đang sống hay là mình đã chết/ Chết rồi hay vẫn sống như ta? Ở phần chín – phần cuối cùng của trường ca, lại được đặt tên A.B.C (hay là tiếng gọi). Ở đây A.B.C không còn là những mẫu tự vô tri trong hàng chữ cái mà đã được hoá thân trong nhiều dạng thức mới. Chiến tranh được soi chiếu bằng một cái nhìn sắc lạnh, tỉnh táo của người trong cuộc nhưng đã có một khoảng cách thời gian sống trong hoà bình. Những gian khổ, mất mát của chiến tranh được hồi tưởng: Chúng tôi đi qua/ Đi qua/ Nỗi sợ hãi để lại sau lưng một khoảng tối om/ Sự gian khổ ấn xuống hai vai bằng đôi tay một gã khổng lồ/ Niềm thương mẹ nhớ em cũng có lúc hoá thành dao sắc/ Cắt vào thịt da/ Dãy Trường Sơn rùng rùng sốt rét/ Những viên bi của bom bi đỏ máu đồng đội lăn qua ngực mình/ Mắt mờ đục đói ăn tóc khô xác tưởng chừng bẻ gãy/ Đường độc đạo một đi không trở lại. Và số phận cá nhân trong cuộc chiến tàn khốc này mang một vẻ đẹp đầy bi tráng: Tôi hai mươi như nước lũ/ Bom đạn nổ tung con đập, nước tràn bờ/ Tôi – Giản ước đến tận cùng để còn lại chính tôi/ Tôi nổ súng!/ Tôi là hạt cứng đanh chưa nảy lá/ Chiến tranh dẫm lên trầy vỏ đã bao lần. Cũng giống như “Gọi nhau qua vách núi”, trường ca “Ngày đang mở sáng” của Trần Anh Thái được kết cấu theo mạch tư tưởng – cảm xúc. Toàn bộ tác phẩm là một dòng tâm trạng gắn với các tình huống, các sự kiện và các mối quan hệ tình cảm. Nhân vật trữ tình đóng vai trò chủ đạo trong tác phẩm chính là cái tôi của nhà thơ. Ở đây cảm xúc trữ tình đã được kết hợp với năng lực tích tụ những trải nghiệm cá nhân của một người lính từng tham gia chiến trận. Hiện tại và quá khứ đan xen nhau từ trong đáy sâu của tiềm thức như một niềm ám ảnh không dứt. Trường ca gồm có 11 khúc, mỗi khúc lại có nhiều đoạn khác nhau. Mỗi khúc của trường ca có cấu tạo độc lập, mối liên hệ giữa các phần khá “lỏng”, có thể thay đổi vị trí cho nhau cũng không làm ảnh hưởng đến cấu trúc tác phẩm. Nhà thơ tham gia, tác động vào kết cấu bản trường ca với tư cách là nhân vật tâm trạng. Do đó cái tôi của nhà thơ luôn đứng ở bình diện thứ nhất để tạo ra không khí cho toàn bộ tác phẩm. Nó xuất hiện từ Khúc I trong tâm thế: Tôi hào phóng tung những con thuyền cất giấu trong mơ/ Bay mãi mãi về phía mặt trời bí ẩn. Cho đến khúc cuối cùng: Tôi qua những cánh rừng núi đồi/ tới bờ biển và sa mạc lạ/ Những dấu chân bất an/ Kí ức sáng trên vầng trán người đạo sĩ già/ ẩn cư miền cao Yên Tử/ Chòm râu phơ phất ưu tư/ Đêm đêm giấc mơ trở về/ Người đạo sĩ chống cây gậy trúc chỉ tay về phía biển Đông/ Mặt trời đang mở sáng… Có thể thấy ở đây “cơ chế giấc mơ” đã hoàn toàn ngự trị tư duy hướng nội và mạch cảm xúc của nhà thơ.  Về phương thức biểu hiện của trường ca, chúng ta thường thấy có sự kết hợp giữa trữ tình và tự sự. Trữ tình thường bộc lộ những suy nghĩ và cảm xúc của chủ thể sáng tạo; tự sự phản ánh khách thể, tạo nên mọi dáng vẻ, đường nét của hiện thực. Ở trường ca “Ngày đang mở sáng” cảm xúc trữ tình của nhân vật tôi có phần nổi trội, lấn át việc miêu tả hiện thực. Hay nói một cách chính xác hơn là hiện thực đã được soi chiếu và dẫn dắt bởi mạch cảm xúc của nhà thơ. Cũng có thể xem đây là một sự “phá vỡ” về mặt thể loại. Chiến tranh luôn đè nặng trong tâm thức của mỗi người lính đã từng tham gia cuộc chiến. Khúc V của bản trường ca là một hồi ức rách xé, đau đớn về chiến tranh và sự thật bi thảm này đâu dễ được tái hiện khi chiến tranh đang tiếp diễn: Kẻ thất trận dưới chân đồi lê bước/ Kéo hoàng hôn rã rời/ Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc/ Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau. Chiến tranh được nhìn bằng cái nhìn khác, chân thực và xót đau, chạm đến những rung động của cuộc sống con người đời thường, thế sự. Bước ra từ cuộc chiến tàn khốc, khác với mọi người, người lính vừa phải sống cùng thực tại vừa phải sống cùng kí ức, phải chịu đựng nỗi đau mất đồng đội hoặc chứng kiến nỗi đau của người thân đồng đội. Những câu thơ văn xuôi trùng trùng, lớp lớp, day dứt khắc khoải là nơi để họ gửi gắm tâm tư: Bạc mắt mùa màng, cát trắng lăm dăm mặt, bầu trời khoanh một vòng tròn trắng. Những hạt mầm nhao lên cơn khát. Người ủ giấc mơ vào đêm che chở, ý nghĩ ngược xuôi con đường. Trăng cuối tháng mơ hồ rớt ngoài cửa sổ, bản đồng ca ran vang màn sương mờ đục cõi sinh. Đâu đó dậy bước đoàn quân. Lá rừng xào xạc rẽ đường qua gai bụi. Tiếng ai ấm áp xa xôi ngày gặp mặt. Những gương mặt xa dần, tiếng đạn bom chìm khuất. Bia mộ viết vu vơ không tên đất tên người. Sông Vệ buồn bã chảy bên đồi Đình Cương, vết thương rỉ máu luênh loang gọi rừng xưa run rẩy tím màu hoa. (“Ngày đang mở sáng” – Trần Anh Thái) Những năm tháng chiến tranh khốc liệt vẫn luôn hiện hữu trong dòng suy nghĩ, trong cơn mơ, lẩn quất trong mỗi không gian sống của cuộc sống người lính thời hậu chiến. Nó trở thành nỗi ám ảnh, thành những mảng kí ức, hằn in khắp nơi trên quê hương. Với những người lính trở về từ cuộc chiến, hiện tại và quá khứ cứ đan xen, lẫn lộn và luôn lẩn khuất đâu đó. Chiến tranh đã dần lùi xa nhưng nó chưa thể phai nhòa trong kí ức vì đâu đó vẫn còn hình ảnh của chiến tranh. Nó hiện lên trong giấc mơ của người lính, trong nỗi đau mất mát của người mẹ, trong ánh mắt sợ hãi của người em, trong nỗi cô đơn của người góa phụ và trong cảnh côi cút của những đứa trẻ mồ côi. Bừng thức đàn chim vút ngang mái nhà tranh mỏng mảnh. Cây vú sữa trái mùa rụng lá tím bầm mặt đất. Những ngọn cỏ thiếu nguồn sinh úa ngọn xanh xao. Sông Vệ kiệt dòng nhằng nhẵng bờ tre ngã bóng. Ngày tháng loanh quanh ô đất mảnh vườn. Đêm toan tính không đâu ngày trĩu nặng. Nước mắt chảy ròng trên má con thơ. Chị mỗi ngày bước mỏi, bàn chân heo hắt cánh đồng. Mặt người gập đất. Dường như dấu ấn chiến tranh vẫn còn hằn rất rõ trên số phận của những người lính và người thân của họ. Những người phụ nữ vừa phải vật lộn với cuộc sống khó khăn thời hậu chiến vừa phải chịu đựng nỗi đau, nỗi cô đơn. Bằng những câu thơ đầy day dứt, cảm xúc tuôn trào, nhà thơ đã lột tả rất rõ nỗi buồn chiến tranh trong thời hậu chiến. Những kỉ niệm của một thời anh hùng mà bi tráng đã trở thành một phần máu thịt của người lính. Dù “ngày đang mở sáng” nhưng những mảng tối của chiến tranh vẫn đâu đây. Và điều đó tạo nên sức mạnh để những người lính bước tiếp vào ngày mai bằng bản lĩnh, niềm kiêu hãnh và cả sức mạnh của nỗi đau. 3. Chiến tranh đã đi qua, nhưng nó chưa bao giờ trở thành quá khứ trong cuộc đời của những người lính đã từng tham gia trận mạc. Những hồi ức đau thương, những thực tế dữ dội của chiến tranh luôn ám ảnh họ. Bài thơ “Cánh rừng nhiều đom đóm bay” của Nguyễn Đức Mậu đã miêu tả cái tâm thế đó bằng những hình ảnh rất cụ thể. Không gian của bài thơ là một góc rừng Trường Sơn thời chiến tranh chống Mĩ, thời gian trải dài trong một ngày đêm, nhân vật chính là người lính trong một đơn vị đang hành quân qua khu rừng… Tất cả những cảnh huống đó đòi hỏi một hình thức thể hiện thích hợp, lạnh lùng, dữ dội nhưng quặn thắt đớn đau: Chiến tranh lùi xa, con đường mòn Trường Sơn bao giờ tôi trở lại? Đâu cái giếng nước hoà máu người tôi uống trong cơn khát, gốc cây rào rào bầy mối đục mòn đêm. Đâu năm ngôi mộ vô danh đắp bằng nỗi đau nước mắt. Nơi cánh rừng có nhiều đom đóm bay. Trong ngày lễ mừng chiến thắng, hàng mấy chục năm sau chiến tranh, người lính vẫn đau đáu một nỗi niềm nhớ về những đồng đội cũ đã nằm lại nơi chiến trường xưa. Những kỉ niệm ấy đã giúp cho họ sống xứng đáng với non sông đất nước hôm nay: (…) Không có ngày vui nào không đi kèm với ngày thương ngày nhớ (…) Bạn ở đâu dưới đất đen, đá đen, cây mục đen, hầm chữ A đen, trọng điểm đen, bóng cây đen trong dải rừng già Trường Sơn. Hơi ấm duy nhất của bạn trong mùa đông chỉ là đất mẹ. Hơi mát duy nhất của bạn trong mùa đông chỉ là chút gió quạt từ cánh bướm hoang. Để có ngày hôm nay, ba triệu người Việt Nam đã ngã xuống (…) Hãy về cùng tôi, một người lính bình thường như bao người lính khác… (“Đất nước” – Phạm Tiến Duật). “Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều”, càng đi sâu vào cuộc chiến, phải chứng kiến nhiều hơn những cảnh tượng giết chóc kinh hoàng, đẫm máu, thế hệ những người lính chống Mĩ không còn đủ vô tư như thời trước” Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (Phạm Tiến Duật). Đó là một thế hệ bầm dập bởi chiến tranh và đã mất đi những ảo tưởng ngây thơ về cuộc chiến: Đừng nói với ta những lời hào nhoáng về chiến tranh/ Tuổi trẻ ta đã qua bạn bè ta đã chết/ Ta vượt bao đèo cao chót vót/ Bao điều nhà trường chẳng dạy cho ta/ Nghĩ lại giễu cười những giấc mộng tuổi thơ/ Giờ trong ta vui buồn đều nín lặng (“Những bông hoa không chết” – Lưu Quang Vũ). Lưu Quang Vũ trở thành người lính ngay từ những năm đầu chống Mĩ. Chi phối thơ anh thời kì này là cái nhìn lạc quan, trong trẻo, đầy tin cậy: Ta đi giữ nước yêu thương lắm/ Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình. Nhưng chỉ vài năm sau đó, cái nhìn về chiến tranh trong thơ anh đã khác hẳn. Đấy là một cái nhìn trực diện, chân thực và đau đớn. Chiến tranh, trước hết gắn liền với chết chóc và bi kịch: Thời bạo tàn lửa cháy khắp nơi/ Những thây người gục ngã/ Những nhịp cầu sụp đổ/ Những toa tàu rỗng không (“Những bông hoa không chết”); Nhưng mãi mãi chẳng bao giờ sống dậy/ Những tháng năm đã mất/ Những nhịp cầu gẫy gục/ Những toa tàu đã sụp đổ tan hoang (“Những đứa trẻ buồn”); Tuổi trẻ, ước mong, những gì quý nhất/ Đều trôi qua trong bụi xám chiến hào (…)/ Ai bảo chúng tôi là tuổi trẻ tươi xanh/ Với những mũi lê với phát đạn đầu tiên/ Chúng tôi đã không còn trẻ nữa (“Cơn bão”). Lưu Quang Vũ căm ghét chiến tranh bởi sự bạo tàn của nó. Chiến tranh hủy diệt những gì tốt đẹp nhất: tuổi trẻ, tình yêu, những khát vọng tuổi thơ… Nhìn vào cuộc chiến, Lưu Quang Vũ không những thương thế hệ mình phải hi sinh tuổi trẻ, mà anh còn xót thương cả những kẻ đứng bên kia chiến tuyến. Hành trình vào chiến tranh của Lưu Quang Vũ cũng là hành trình nhận thức lại cuộc đời. Lưu Quang Vũ đã mang một cái nhìn khác và tìm một chất thơ hoàn toàn khác với giai đoạn trước của anh và khác với cả khuynh hướng chung của thế hệ thơ chống Mĩ. ______________________________________________ (1) Gabrielle Schrader: Văn học chiến tranh Việt Nam – một cái nhìn khái quát, http://helium.com. (2) Thanh Thảo: Từ đêm mười chín nghĩ về anh hùng ca và trường ca, Tạp chí Thơ, số 6/2006.  

Lưu Khánh Thơ (Văn nghệ Quân đội)

Ẩn Dụ Về Con Người Trong Ca Dao Việt Nam Dưới Góc Nhìn Văn Hoá

(Trần Thị Minh Thu, In trong ”

Những vấn đề ngữ văn

” (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Ngôn ngữ và văn hoá: “mối quan hệ biện chứng lẫn nhau”

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người; ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác[1]. Từ định nghĩa trên, chúng ta không chỉ nhận ra được tầm quan trọng của ngôn ngữ trong đời sống của con người mà bên cạnh đó, chúng ta còn nhận ra được mối quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ và văn hóa – một “mối quan hệ biện chứng lẫn nhau”[2]. Nghiên cứu ngôn ngữ nói chung dưới góc độ văn hóa đã trở nên phổ biến trong giới ngôn ngữ học hiện nay, hướng tiếp cận ngôn ngữ – văn hóa không chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu, khoa học mà nó còn đem lại nhiều giá trị về mặt nhận thức, thực tiễn.

Ca dao là một trong những thể loại tiêu biểu của văn học dân gian Việt Nam. Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán Việt, trước đây, người ta còn gọi ca dao là phong dao bởi vì có nhiều bài ca dao đã phản ánh những phong tục, tập quán của từng địa phương, của từng thời đại lịch sử. Có nhiều định nghĩa khác nhau về ca dao nhưng tựu trung lại, chúng ta có thể định nghĩa ca dao như sau: Ca dao là những bài văn vần do nhân dân sang tác tập thể, được lưu truyền bằng miệng và được phổ biến rộng rãi trong nhân dân[3]. Những bài ca dao với những vần điệu trữ tình, đằm thắm không biết tự bao giờ đã đi vào đời sống văn hóa – tinh thần của người dân Việt Nam như một món ăn thanh tao nhưng đậm đà hương vị; nó không chỉ tái hiện trước mắt người đọc những danh lam thắng cảnh, những bức tranh làng quê bình dị của đất nước Việt Nam với bao cảnh vật nên thơ mà đó còn là những khúc hát tâm tình nhẹ nhàng mà sâu lắng, da diết của những người dân lao động hiền lành, chất phác. Ca dao được ví như một chuyến đò ân tình chuyên chở biết bao tình cảm của người dân Việt từ xưa đến nay; và nó cũng chuyên chở trên những vần thơ trữ tình ấy bao nét tinh hoa của văn hóa Việt Nam.

Chúng ta có thể nhận thấy rằng ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ mật thiết, “biện chứng” và không thể tách rời. Không phải ngẫu nhiên mà W. V. Humboldt nhận định rằng: Ngôn ngữ là linh hồn dân tộc. Không có ngôn ngữ nào nằm ngoài văn hóa cũng như không có văn hóa nào mà lại không được biểu thị thông qua ngôn ngữ. Do đó, muốn tìm hiểu đặc trưng và bản sắc nền văn hóa ta không thể không nghiên cứu ngôn ngữ và các hình thức biểu hiện của nó. Vì vậy, nếu chúng ta muốn giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân tộc cũng đồng nghĩa với việc chúng ta không thể lơ là, không coi trọng đến việc bảo vệ và phát triển ngôn ngữ.

Kế thừa những thành tựu của những công trình khoa học đi trước, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ca dao Việt Nam dưới góc độ văn hóa để tìm ra những ẩn dụ về con người, nhân dân lao động. Vén mở tâm tình của người dân lao động qua những vần ca dao, chúng ta thấy được cái ý nhị, tinh tế trong tâm hồn, trong suy nghĩ, tình cảm của ông bà ta đã gửi gắm kín đáo qua những ẩn dụ, biểu tượng mang đậm đà bản sắc văn hóa Việt. Qua khảo sát như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những đặc trưng của văn hóa trong đời sống sinh hoạt của người Việt. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài “Ẩn dụ về con người trong ca dao Việt Nam dưới góc độ văn hóa”

Ẩn dụ về con người trong ca dao dưới góc nhìn văn hoá

Ẩn dụ là phương thức tu từ được sử dụng rất phổ biến trong ngôn ngữ nói chung, đặc biệt là trong ngôn ngữ nghệ thuật – các tác phẩm văn chương nói riêng. Với bản chất giàu tính hình tượng và hàm súc, ẩn dụ làm cho ngôn ngữ trong văn, thơ trở nên bóng bẩy, trau chuốt, chứa đựng nhiều tầng nghĩa tinh tế, đẹp và gợi cảm hơn.

Trong công trình Phong cách học và các phong cách chức năng Tiếng Việt, tác giả Hữu Đạt đã định nghĩa “Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra…thực chất của phép ẩn dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc”. Ở đây, tác giả nhấn mạnh việc đặt ẩn dụ trong mối tương quan chặt chẽ giữa ngôn ngữ với bối cảnh văn hóa, truyền thống dân tộc. Nếu như không am hiểu về văn hóa Việt Nam với những đặc trưng tiêu biểu của nền văn hóa nông nghiệp, văn minh lúa nước thì ắt hẳn sẽ không thể hiểu được:

Bây giờ mận mới hỏi đào

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa

Mận hỏi thì đào xin thưa

Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào

(Ca dao)

Hay

Hôm nay lan huệ sánh bày

Đào đông ướm hỏi liễu tây một lời

Lạ lùng ướm hỏi nhau chơi

Một mai cá nước chim trời gặp nhau

(Ca dao)

Những mận, đào, lan, huệ, đào đông, liễu tây, cá nước, chim trời….là những hình ảnh rất quen thuộc của làng quê Việt Nam, và ấy cũng chính là những hình ảnh ẩn dụ – những biểu tượng – mộc mạc giản dị mà rất đỗi gần gũi, thân thương cho những người lao động bình dân – những con người suốt ngày “chân lấm tay bùn” nhưng tâm hồn thanh tao và có một đời sống tình cảm phong phú, sâu nặng nghĩa tình.

Ở những phần tiếp theo, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích những ẩn dụ về con người – những ẩn dụ đã được khái quát hóa qua những biểu tượng, hình ảnh tiêu biểu – trong ca dao để thấy rõ hơn nét đặc trưng văn hóa nông nghiệp của Việt Nam.

1. Biểu tượng “HOA”

Trong công trình Người phụ nữ qua những hình ảnh so sánh trong ca dao Việt Nam của Lưu Thị Nụ (1992), tác giả đã đưa ra kết luận sau khi khảo sát 3506 lời ca dao là trong bốn hình ảnh thường được ví với người phụ nữ: “hoa”, “chim”, “cây”, “quả” thì “hoa” xuất hiện với tần số nhiều nhất.

Hoa thơm trồng dựa cành rào

Gió nam, gió chướng, gió nào cũng thơm

Hoa kia tươi tốt rườm rà,

Tuy rằng tươi tốt, khi mà ong châm.

Có thể nhận định rằng “hoa” là một biểu tượng nổi bật trong ca dao Việt Nam, trong đó hoa nhài là một biểu tượng thẩm mĩ đặc biệt, nó gắn liền với quan niệm thẩm mĩ – văn hóa của từng thời đại; bên cạnh đó chúng ta cũng bắt gặp nhiều hình ảnh ẩn dụ tinh tế khác như hoa sen, hoa dâm bụt, hoa hồi, hoa bèo, hoa cúc.. trong ca dao.

Hoa nhài/ hoa lài

Trong ca dao, hoa nhài thường được ví với nụ cười duyên dáng, đáng yêu của người con gái:

Miệng em cười như cánh hoa nhài

Như nụ hoa quế như tai hoa hồng

Ước gì anh được làm chồng

Để em làm vợ, tơ hồng trời xe.

Hay

Miệng cười như cánh hoa nhài nở nang

Nếu ở những câu ca dao trên, hoa nhài chỉ xuất hiện với vẻ đẹp thuần túy bên ngoài thì ở những câu ca dao sau đây, cùng với những ẩn dụ tinh tế, hoa nhài nổi bật lên một “vẻ đẹp lâu bền, khó phai” bên trong; điều này cũng tựa như tâm hồn của những cô thôn nữ chốn làng quê Việt.

Càng thắm lại càng mau phai

Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu

Trong thế giới tự nhiên cũng như trong ca dao dân gian, hoa nhài không phải là loài hoa chiếm ngôi vị “nữ hoàng”, đó không phải là loài hoa hương sắc nhất, càng không phải loài hoa kiêu sa, đài các như hoa hồng thế nhưng trong cái ngôi bậc “khiêm nhường” ấy của mình, hoa nhài lại càng khẳng định cái “duyên ngầm” đáng yêu của mình:

Hoa lí là chị hoa lài

Hoa lí có tài, hoa lài có duyên.

Đào kia chưa thắm đã phai

Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu…

Anh đừng tham bông quế, bỏ phế cái bông lài

Mai sau quế rụng, bông lài thơm xa…

Vẻ đẹp bình dị, hiền hòa của hoa nhài còn được ví von với vẻ đẹp của đôi lứa xứng đôi

Đôi ta lấm tấm hoa nhài

Chồng đây vợ đấy kém ai trên đời

Không chỉ có vẻ đẹp thanh tao cùng tâm hồn tinh tế, hương hoa nhài còn là biểu tượng của vẻ thanh lịch, cao quý:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

Như vậy, trong tư duy của người dân lao động thời xưa, hoa nhài/ hoa lài là một loài hoa đẹp, cao quý, thanh tao. Qua ý nghĩa của hoa nhài, chúng ta thấy được quan niệm thẩm mĩ, văn hóa và đạo đức của nhân dân lao động. Đó là truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam: quý trọng thủy chung, tình nghĩa sắt son, thích “cái nết đánh chết cái đẹp”, “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”; quý cái tình, cái duyên bên trong hơn là những vẻ đẹp hào nhoáng, sáo rỗng, vô hồn.

Các loài hoa khác

Bên cạnh biểu tượng hoa nhài/ hoa lài tiêu biểu trong ca dao, chúng ta còn bắt gặp nhiều hình ảnh ẩn dụ “hoa” khác như hoa cúc, hoa sen, hoa lan, hoa huệ…  về người dân lao động, những hình ảnh vốn rất quen thuộc, bình dị của nông thôn, làng quê nhưng không hề thiếu sự tinh tế, thể hiện những nét đẹp dân dã cùng phẩm chất tốt đẹp, nhân hậu của người dân lao động, chẳng hạn như trong các câu ca dao sau:

Hôm nay lan huệ sánh bày

Đào đông ướm hỏi liễu tây một lời

Lạ lùng ướm hỏi nhau chơi

Một mai cá nước chim trời gặp nhau

(Ca dao)

Hoa sen mọc bãi cát lầm

Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen

Cánh hồng bay bổng trời thu,

Thương con chim gáy cúc cu trong lồng.

Duyên may, tay bế tay bồng,

Thương ai vò võ trong phòng chiếc than.

Cũng có khi tác giả dân gia mượn “hoa” để châm biếm nhẹ nhàng:

Có đỏ mà chẳng có thơm

Như hoa dâm bụt, nên cơm cháo gì!

Vì hoa tham lấy sắc vàng,

Cho nên hoa phải muộn màng tiết thu.

Trên đời gì rẻ bằng bèo,

Chờ khi nước lụt, bèo trèo trên sen.

Trên đời gì đẹp bằng sen,

Quan yêu, dân chuộng, rã bèn cũng hư.

2. Biểu tượng “CON VẬT”

Con cò

Trong ca dao Việt Nam, có rất nhiều bài nói đến hình ảnh con cò. Có khi là con cò lặn lội bờ ao, có khi là co cò bay lả bay la, có khi là con cò trắng bạch như vôi, con cò bay bổng bay cao, con cò kì, con cò quăm…

Cái cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

– Nàng về nuôi cái cùng con

Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng

Ở nhà có nhớ anh chăng?

Để anh kể nỗi Cao Bằng mà nghe.

Cái cò là cái cò con

Mẹ nó yêu nó, nó còn làm thơ,

Cái cò bay bổng, bay bơ,

Lại đây anh gửi xôi khô cho nàng

Đem về nàng nấu, nàng rang,

Nàng ăn có dẻo thời nàng lấy anh.

Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân lao động lại hay nhắc đến con cò như vậy. Như Vũ Ngọc Phan từng nhận định trong Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam: Trong các loài kiếm ăn ở đồng ruộng, chỉ có con cò thường gần nhiều người nông dân hơn cả. Những lúc cày cuốc, cấy hái, người nông dân Việt Nam thường thấy trên đồng lúa bát ngát, con cò đứng trên bờ ruộng rỉa lông rỉa cánh, ngắm nghía người nông dân làm lụng.

Một đàn cò trắng bay tung

Đôi bên nam nữ, ta cùng hát lên!…

Hình ảnh con cò trắng “tuy ngày đêm lặn lội, nhưng nhiều lúc lại bay lên mây xanh. Nó cũng vất vả, nhưng nó có vẻ trong trắng, thanh cao, có những lúc nó vẫy vùng thoải mái, nó sống một cuộc đời mà người dân lao động nước ta thời xưa hằng mong ước”[4].

Trong khi lao động vất vả, thấy đàn cò trắng cùng nhau sum họp, người nông dân lại cất lên những câu ca dao trữ tình, thắm thiết:

Một đàn cò trắng bay quanh

Cho loan nhớ phượng, cho mình nhớ ta

Mình nhớ ta như cà nhớ muối

Ta nhớ mình như Cuội nhớ trăng.

Sự đoàn tụ của đàn cò là hình ảnh ẩn dụ cho niềm mong ước được gần gũi và tâm tình với nhau của những người lao động chất phác, hiền lành. Trong con mắt của người lao động thời xưa, con cò và những con chim đồng loại với nó như con bồ nông, con hạc, con vạc có tình bạn thắm thiết với nhau, chúng túm tụm sum họp với nhau đều có sự gần gũi với cảnh tình của người nông dân. Số phận “con cò lặn lội bờ sông” cũng tựa như số phận những con người lao động ngày đêm vất vả lao động để làm ra hạt thóc hạt gạo thế nhưng lại hẩm hiu, bèo bọt

Con cò mày đi ăn đêm,

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao,

-Ông ơi ông vớt tôi nao,

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng

Có xáo thì xáo nước trong,

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác, xuống ghềnh bấy nay.

Những câu cao dao trên đều rất kín đáo, ý nhị, tác giả dân gian không hề đả động gì đến con người và cũng không nhắc đến giá trị lao động của học nhưng chúng ta đều ngầm hiểu cái “thân cò” ấy chính là than phận người nông dân sớm nắng chiều mưa, đầu tắt mặt tối. Hình ảnh “con cò” không gì khác ấy chính là hình ảnh những người nông dân Việt Nam muôn đời, những con người cần cù, chăm chỉ, chất phác, kiên cường, luôn bền bỉ nhẫn nại cả trong lao động sản xuất lẫn trong đấu tranh chống những thế lực đàn áp mình.

Ai làm cho bể kia đầy,

Cho ao kia cạn, cho gầy cò con.

Cái cò là cái cò con,

Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà,

Mẹ đi một quãng đồng xa,

Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn,

Ông kia có chiếc thuyền nan,

Chở vào ao rậm, xem lươn bắt cò..

Ông kia chống gậy lò dò,

Con lươn tụt xuống, con cò bay lên…

Trong xã hội phong kiến Việt Nam, ngoài nghề nông, người dân còn làm nghề buôn, nghề thủ công. Không kể người dân ở bất kỳ ngành nghề gì, bọn giai cấp thống trị tham lam, độc ác, chúng không vơ vét, bóc lột tận xương những người dân khốn khổ.

Cái cò cái vạc cái nông

Ba cái cùng béo, vặt lông cái nào!

Vặt lông cái vạc cho tao!

Hành, răm, nước mắm bỏ vào mà thuôn.

Chúng sẵn sàng bóc lột, tra tấn thậm chí là giết chóc nhẫn tâm có khi chỉ vì một lí do cỏn con

Cái cò cái vạc cái nông

Sao mày dẫm lúa nhà ông, hỡi cò?

Không không tôi đức trên bờ

Mẹ con các diệc đổ ngờ cho tôi!

Chẳng tin ông đứng mà coi

Mẹ con nhà nó còn ngồi ở kia.

            Người dân lao động trong cái xã hội ấy bị rẻ rúm đến mức chết cũng chẳng nguyên vẹn, toàn thây. Cái chết tang thương ấy có khi lại thành trò, món béo bở cho bọn nanh độc.

Con cò chết rũ trên cây,

Bồ cu mở lịch xem ngày làm ma.

Cà cuống uống rượu la đà,

Bao nhiêu cóc nhái nhảy ra chia phần,

Chào mào thì đánh trống quân,

Chim chích mặc quần vác mõ đi rao…

Nhưng trong các bài ca dao của mình, không phải lúc nào hình ảnh “con cò” cũng dung để ví von với những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân mà các tác giả dân gia cũng có khi dung “con cò” để nói về những kẻ xấu như: những kẻ hay ăn quà như “con cò kỳ”; những kẻ hay đánh vợ như “con cò quăm”. Chẳng hạn như trong câu ca dao sau:

Cái cò là cái cò quăm,

Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?

-Có đánh thì đánh sớm mai

Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm!

Lời ca dao tuy để châm biếm, trách móc, giễu cợt nhưng cũng dí dỏm, hài hước nhẹ nhàng; đúng tinh thần nhân ái của người dân Việt

-Có đánh thì đánh sớm mai

Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm!

Như vậy, qua những câu ca dao trên, chúng ta thấy rằng người dân lao động thời xưa đã mượn hình ảnh con cò để nói về cuộc sống của chính mình, dùng hình ảnh con cò để “gợi hứng, để tỏ sự mong muốn của mình, nói lên những đức tính của mình, nông nỗi khổ cực của mình và cả những thói xấu của mình nữa”[5].

Con bống/ cái bống

Con bống (hay cái bống, cá bống) cũng là hình ảnh tiêu biểu thường xuyên xuất hiện trong ca dao Việt Nam. Theo Vũ Ngọc Phan, đối với người Việt, nếu như con cò có thể là hình ảnh nói chung của người dân lao động, có thể là nam hoặc nữ; thì cái bống hay con bống là biểu tượng đặc trưng cho người thiếu nữ hay thiếu phụ. Nhà nghiên cứu quả là đúng đắn khi đưa ra nhận định “nói chung đối với người nông dân, con cá bống có vẻ xinh xẻo, hiền lành, cho nên mỗi khi nói đến cái Bống là người nông dân nước ta nói bằng một giọng nâng niu”[6]. Tiêu biểu như những câu ca dao như sau:

Cái bống cõng chồng đi chơi

Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng.

Chú lái ơi, cho tôi mượn cỗ gầu sòng,

Tôi tát nước cạn cho chồng tôi lên.

Cái bống mặc xống ngang chân

Lấy chồng kẻ chợ cho gần xem voi

Các con vật khác

Trong ca dao Việt Nam, ngoài hình ảnh con cò, cái bống là những hình ảnh tiêu biểu, chúng ta còn bắt gặp những hình ảnh của các con vật khác – những hình ảnh ẩn dụ cho người dân lao động thời xưa như: con nhện, con tằm, con tép, con tôm, con tép, con cua, con cóc,con gà, con rùa, con tò vò, con cá, con chim, ong, bướm, loan phượng… Mượn những hình ảnh quen thuộc của làng quê, người dân muốn gửi gắm vào trong những tôm tép, con tằm, con nhện.. ấy những tâm tư, tình cảm của chính mình. Chẳng hạn như những câu ca dao như sau:

Thương thay thân phận con rùa

Trên đình đội hạc, dưới chùa đội bia.

Lươn ngắn lại chê trạch dài

Thờn bơn méo miệng, chê trai lệch mồm.

Xa xôi dịch lại cho gần,

Làm thân con nhện mấy lần vương tơ.

Chuồn chuồn mắc phải tơ vương,

Nào ai quấn quýt thì thương cho cùng.

Có nên thì nói là nên

Chẳng nên sao để đấy quên đây đừng

Làm chi cho dạ ngập ngừng,

Đã có cà cuống thì đừng hạt tiêu.

Cá trong lờ đỏ hoe con mắt,

Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô.

Tung tăng như cá trong lờ,

Trong ra không được ngoài ngờ là vui.

3. Biểu tượng “CÂY”

Cây trúc, cây mai

Hình ảnh trúc, mai là những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt và cũng xuất hiện rất nhiều lần trong ca dao. Tác giả dân gian nhắc đến trúc, mai; nhưng không phải để tả thực cây trúc cây mai, cũng không phải bàn chuyện trúc mai phong cảnh, mà họ mượn mai, trúc để nói về con người.

Thân em như tấm lụa đào

Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai

Em vin cành trúc, em tựa cành mai

Đông đào tây liễu biết ai bạn cùng.

Trong ca dao, khi trúc đứng một mình, thường đó là biểu tượng cho người con gái xinh đẹp, thướt tha, duyên dáng:

Trúc xinh trúc mọc bờ ao

Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh

Hình ảnh trúc mai quấn quýt bên nhau chính là ẩn dụ cho tình cảm đôi lứa thắm thiết, mặn nồng của người dân lao động

Hôm qua sum họp trúc mai

Tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm.

Đêm qua nguyệt lặn về tây

Sự tình kẻ đấy, người đây còn dài…

Trúc với mai, mai về, trúc nhớ

Trúc trở về, mai nhớ trúc không?

Bây giờ kẻ Bắc người Đông

Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư!

Mượn hình ảnh trúc mai, tác giả dân gian khéo léo lột tả nhiều cung bậc cảm xúc, tình cảm của những đôi lứa yêu nhau.

Có khi đó là lời nhắn nhủ, niềm hy vọng

Đợi chờ trúc ở với mai,

Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng.

Cũng có khi đó là tâm trạng vui mừng, hân hoan:

Trầu này trúc, cúc, mai, đào,

Trầu này thục nữ anh hào sánh đôi

Có khi nó thể hiện ước mơ sum họp của tình yêu

Bao giờ sum họp trúc mai

Lòng nguyền kết tóc lâu dài trăm năm

Đó cũng là tâm tình gửi gắm

Có lòng tạc một chữ vàng

Thiếp đưa duyên lại đôi đàng cậy anh

Tìm nơi trúc tốt mai xanh

Tìm nơi bóng cả lắm ngành dựa nương.

Lòng lại dặn lòng dù non mòn biển cạn

Dạ lại dặn dạ dù đá nát vàng phai

Dù cho trúc mọc thành mai

Em cũng không xiêu lòng lạc dạ, nghe ai phỉnh phờ

Cũng có khi mai trúc tượng trưng cho nỗi buồn của con người

Lênh đênh chiếc bách giữa dòng,

Thương than góa bụa, phòng khi lỡ thì.

Gió đưa cây trúc ngã quỳ

Ba năm trực tiết, còn gì là xuân!

Cũng có khi đó là những lời trách móc, giận hờn nhau

Những là lên miếu xuống nghè

Để tôi đánh trúc, đánh tre về trồng.

Tưởng rằng nên đạo vợ chồng.

Nào ngờ nói thế mà không có gì

Như vậy, hình ảnh trúc, mai trong ca dao Việt Nam thường được dùng để ví với đôi bạn trẻ, cho tình yêu lứa đôi. Mượn hình ảnh trúc, mai, người dân xưa đã khéo léo nói lên tâm trạng của chính mình một cách tinh tế, ý nhị.

Các loại cây khác

Bên cạnh hình ảnh cây trúc, cây mai, trong ca dao, ông bà ta còn lấy hình ảnh các loại cây, trái, quả khác để tượng trưng cho người dân lao động như: quế, hương, mận, đào, cây đa, cây tùng, cây xoan đào, cây liễu, chanh, cam, lê lựu, gừng, bòng, cau trầu….

Hai bên bên liễu bên đào

Mặc tình ý bạn thương bên nào thì thương.

Bao giờ cho chuối có cành,

Cho sung có nụ cho cành có hoa.

Già thời bế cháu đỡ con,

Già đâu lại ước cau non trái mùa.

– Già nay ước những của chua

Cau non trái mùa già vẫn muốn ăn

Quý chi một nải chuối xanh

Nam bảy người giành cho mủ dính tay

Vên vên cứng, dành dành cũng cứng

Mù u tròn, trái nhãn cũng tròn.

Vàng thau tuy lộn một bồn

Anh là tay thợ lựa lòn phải ra.

4. Một số hình ảnh  ẩn dụ khác trong ca dao Việt Nam

Trong ca dao, chúng ta còn bắt gặp rất nhiều hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam được các tác giả dân gian sử dụng rất khéo và tinh tế để tượng trưng cho người dân lao động, để gửi gắm những tâm tư, tình cảm thầm kín của họ vào những câu ca dao mượt mà, đằm thắm, trữ tình.

Đó có khi là hình ảnh thuyền bến, bờ sông

Em thương ai nấp bụi nấp bờ

Sớm trông đò ngược, tối chờ đò xuôi

Thuyền anh đậu bến lâu rồi

Sao em chưa xuống mà ngồi thuyền anh.

Một thuyền một bến một dây

Ngọt bùi ta hưởng đắng cay chịu cùng.

Đói lòng ăn nắm lá sung,

Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng

Một thuyền một lái chẳng xong

Một chĩnh đôi gáo còn nong tay vào.

Có khi đó là hình ảnh của mây, núi, gió, trăng

Vì mây cho núi lên trời

Vì cơn gió thổi hoa cười với trăng

Vì chuôm cho cá bén đăng

Vì tình nên phải đi trăng về mờ

Chim xanh ăn trái xoài xanh

Ăn no tắm mát đậu cành cây đa.

Cực lòng em phải nói ra,

Chờ trăng, trăng xế, chờ hoa, hoa tàn.

Có khi đó lại là những hình ảnh rất mộc mạc của hạt gạo, nước cà, bát sứ, bát đàn, của gối chăn, gương lược

Chăn kia nửa đắp nửa hờ,

Gối kia nửa đợi nửa chờ duyên em

Tiếc thay hột gạo trắng ngần

Đã vo nước đục lại vần than rơm

Tiếc thay hột gạo tám xoan

Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà.

Có bát sứ tình phụ bát đàn

Nâng niu bát sứ vỡ tan có ngày

Trách người quân tử bạc tình

Có gương mà để bên mình biếng soi.

Có khi ấy là giếng nước, mảnh chĩnh, cái chuông

Tiếc thay cái giếng nước trong

Để cho bèo tấm, bèo ong lọt vào.

Khen ai khéo đúc chuông chì,

Dáng thì có dáng, đánh thì không kêu.

Chuông khánh còn chẳng ăn ai,

Nữa là mảnh chĩnh bỏ ngoài bờ tre.

Chuông khánh còn chẳng ăn chè,

Nữa là mảnh chĩnh rò rè ăn xôi.

Hình ảnh cây đa, con đò cũng là một biểu tượng cho tình yêu đôi lứa

Trăm năm đành lỗi hẹn hò

Cây đa bến cũ con đò khác đưa

Như vậy, trong ca dao chúng ta thường bắt gặp những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như trầu, cau, lan, huệ, trúc, mai, nhài… Tác giả dân gian không mấy khi nói đến hình ảnh trúc mai, lan huệ để tả thực cây trúc, cây mai mà ở đây mai, trúc… đã trở thành những biểu tượng thân thương nhằm thể hiện con người – người lao động bình dân với những tình cảm tha thiết, chân thành, mộc mạc mà rất đỗi ân tình. Ẩn dụ này trong ca dao Việt Nam cũng gắn liền với những đặc trưng tiêu biểu của nền văn minh lúa nước. Những hình ảnh rất đỗi quen thuộc và dung dị của làng quê Việt: những thuyền, bến, những cây đa, mái đình, giếng nước; những con cò, cái bống, con trâu, con nghé, con cá, con tằm; những hoa sen, hoa cúc, hoa hồi; những con ong, cánh bướm… đã bước ra từ làng quê mộc mạc, đơn sơ đi vào những câu ca dao đằm thắm và trở thành những hình ảnh ẩn dụ tinh tế – những biểu tượng trữ tình, gợi cảm – cho những con người lao động chất phác, hiền lành mà chan chứa thương yêu, ân tình sâu sắc. Họ đã mượn những hình ảnh gần gũi, quen thuộc để giãi bày, để tâm sự, để gửi gắm và sẻ chia những tâm sự thầm kín trong lòng; tất cả những tình cảm ấy đậm đà qua từng vần ca dao, nó da diết mà vẫn kín đáo, ý nhị; thể hiện rõ nét văn hóa tinh tế trong đời sống tinh thần của người dân Việt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A.       SÁCH

Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Văn học Việt Nam văn học dân gian những tác phẩm chọn lọc (Tái bản lần thứ tư), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2004.

Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Văn học Việt Nam văn học dân gian những công trình nghiên cứu (Tái bản lần thứ tư), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2003.

Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Phong cách học tiếng Việt (Tái bản lần thứ sáu), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2006.

Mã Giang Lân (tuyển chọn và giới thiệu), Tục ngữ ca dao Việt Nam, NXB. Văn học, Hà Nội, 2009.

Nguyễn Thiện Giáp, Giáo trình ngôn ngữ học, NXB. ĐHQG Hà Nội, 2008.

Nhiều tác giả, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (Tái bản lần thứ tư), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2001.

Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam (Tái bản lần thứ hai), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1999.

Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (Tái bản lần thứ mười lăm có sửa chữa và bổ sung), NXB. Văn học, Hà Nội, 2007.

B.       WEBSITES

http://www.vanhoahoc.edu.vn/content/view/1607/37/: Phan Mậu Cảnh

ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA, CỘI NGUỒN VĂN HÓA VÀ SỰ THỂ HIỆN CHÚNG TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT

www.thivien.net

www.google.com

www.wikipedia.com: ca dao dân ca Việt Nam

Áo Yếm Trong Thơ Văn Việt Nam

Lịch sử

Áo yếm xuất hiện từ bao giờ không ai rõ, chỉ biết rằng nó đã có mặt trong cuộc sống của người dân Việt từ rất xa xưa. Nó được mặc bởi phụ nữ Việt ở mọi tầng lớp giai cấp xã hội, từ các tôn nữ công chúa nơi thâm cung, các phu nhân tiểu thư của những gia đình quý tộc, đến những người phụ nữ bình dân tần tảo, vất vả sớm hôm để nuôi chồng, nuôi con.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng chiếc yếm được ra đời là để tôn lên cái lưng ong vốn được xem là một nét đẹp của người phụ nữ trong văn hóa Việt Nam. Theo quan niệm truyền thống của người Việt, một cô gái đẹp là phải có cái lưng được thắt đáy nhỏ nhắn như cái lưng ong. Người Việt xưa cho rằng những cô gái với cái lưng ong không chỉ mang một dáng hình đẹp mà còn có đầy đủ tất cả những đức hạnh của một người vợ, người mẹ. Chúng ta có câu ca dao:

Đàn bà thắt đáy lưng ong Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.

Hình dạng của chiếc áo yếm có thể là đã được thay đổi theo thời gian nhưng nó lần đầu tiên được ghi nhận vào thế kỷ 12 dưới triều Lý.

Vào thế kỷ 18-19, chiếc áo yếm có hình vuông vắt chéo trước ngực, góc trên khoét tròn làm cổ, hai đầu của lỗ đính mẩu dây để cột ra sau gáy. Nếu cổ tròn gọi là yếm cổ xây, cổ nhọn đầu hình chữ V gọi là yếm cổ xe, đáy chữ V mà sẻ sâu xuống gọi là yếm cổ nhạn.

Cuộc cách mạng áo yếm xảy ra vào thế 20 khi các kiểu áo Tây phương xâm nhập vào Việt Nam với sự ra đời của rất nhiều kiểu yếm mới lạ.

Màu sắc áo yếm nói lên khá nhiều về người chủ của nó: Người lao động đồng ruộng mặc yếm màu nâu bằng vải thô. Con gái nhà gia giáo thì mặc yếm nhiều màu trang nhã và kín đáo. Người lớn tuổi mặc yếm màu thẫm. Kiểu yếm màu sặc sỡ, cổ khoét sâu thì ít người dùng, chỉ những người như kiểu thị Màu mới dám xài, với câu thơ ỡm ờ:

Gió xuân tốc dải yếm đào Anh trông thấy oản sao không vào thắp hương

Áo yếm thường được dùng kết hợp với áo cánh hoặc áo dài, mặc với nón quai thao, khăn nhiễu và khăn mỏ quạ.

Áo yếm trong thơ văn Việt Nam

Từ những câu tỏ tình của các chàng trai trong các cuộc gặp gỡ

Hỡi cô mặc áo yếm hồng Đi trong đám hội có chồng hay chưa? Cô kia yếm trắng lòa lòa Lại đây đập đất trồng cà với anh. Bao giờ cà chín cà xanh Anh cho một quả để dành mớm con.

Cho đến câu nhớ nhung, mong đợi của kẻ xa quê

Mình về mình có nhớ chăng Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình. Ta về ta cũng nhớ mình Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao

Rồi chiếc yếm lại trở thành vật trao tình của các cô gái trẻ. Yêu anh thì mới trao yếm cho anh. Khi anh hỏi mượn em chiếc yếm là ý anh muốn hỏi em có yêu anh không, có đồng ý theo anh không.

Thuyền anh ngược thác lên đây Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền. Ở gần mà chẳng sang chơi Để em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu. Mồng tơi chẳng bắc được đâu Em cởi dải yếm bắc cầu anh sang

Dải yếm thì làm sao mà dùng dây kéo thuyền được, làm sao mà bắc cầu được? Nhưng đấy chỉ là ẩn ý thôi, cái anh thực sự muốn là chân tình của em. Em phải dùng “yếm” làm dây bắc cầu thì anh mới sang.

Rồi dải yếm lại trở thành một biểu tượng cho tình yêu giữa đôi trai gái

Trời mưa trời gió kìn kìn Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông

Bên ngoài mưa gió lạnh rét, đôi uyên ương dùng đôi dải yếm để đắp và vẫn thấy ấm áp hơn nằm trong nghìn lớp chăn bông. Đó không phải là vì dải yếm có sức cách lạnh tốt, mà là vì dải yếm là biểu tượng cho tình yêu của lứa đôi, tình yêu ấy có thể làm ấm lòng người giữa tiết trời giá rét.

Đối với những đôi trai gái không được nên duyên nên phận vợ chồng như mong ước, chiếc yếm lại hiện lên trong câu thơ xót thương tiếc nuối của các chàng trai.

Kiếp sau đừng hóa ra người Hóa ra dải yếm buộc người tình nhân

Yếm còn trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ thi sĩ Việt. Tác giả bài “Chùa Hương” khi tả một cô thiếu nữ đẹp đang lên chùa đã viết

“Em đeo giải yếm đào Quần lĩnh áo the mới Tay cầm nón quai thao”.

Vẫn nguồn cảm hứng từ chiếc áo yếm, nhà thơ Hoàng Cầm đã viết nên khúc “Hội Yếm Bay”

“Ngất núi ô kìa anh vỗ nhịp Bay cờ triệu yếm ríu ran ca Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội Nuột nà cởi bỏ áo hoa khôi”

Còn nhà thơ Nguyễn Bính khi bày tỏ sự tiếc nuối đối với cô em thôn nữ của ông đã viết

“Nào đâu chiếc yếm lụa đào. Chiếc khăn lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?…”

Yếm, đã đẹp, lại còn lôi cuốn ở nét vừa kín vừa hở. Xem Hồ Xuân Hương tả cô gái sau thì rõ:

“Lược trúc lỏng cài trên mái tóc Yếm đào trễ xuống dưới nương long Ðôi gò Bồng đảo sương còn ngậm Một lạch Đào nguyên suối chửa thông”

(Bài viết Thùy An, Tranh: họa sỹ Quốc Dũng)

Anh Hùng Chiến Tranh Trung Quốc Hàn Tín

Hàn Tín còn được gọi là Hoài Âm hầu, là một vị danh tiếng lẫy lừng, bánh chiến bách thắng dưới thời Hán Sở tranh hùng, được Lưu Bang r ất tín nhiệm. Ông cùng Tiêu Hà và Trương Lương là “Hán sơ tam kiệt”, là ba người có công lớn giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán trị vì 400 năm.

Năm 209 TCN, khi Trần Thắng khởi nghĩa chống lại nhà Tần, Hàn Tín đã đã cầm kiếm xin tham gia nghĩa quân. Ông được Hạng Lương là thế tộc nước Sở đồng ý cho gia nhập nghĩa quân. Tuy nhiên, Hạng Lương và Hạng Vũ lại rất xem thường Hàn Tín có xuất thân thấp hèn nên chỉ cho làm quân cầm kích đứng hầu. Nhiều lần Hàn Tín bày mưu cho Hạng Vũ nhưng Hạng Vũ đều không dùng. Khi nhà Tần sụp đổ, Hạng Vũ đứng đầu chư hầu. Lưu Bang bị Hạng Vũ trang công vào Quan Trung, đẩy tới đất Thục xa xôi đầy hiểm trở, phong làm Hán vương. Khi Lưu Bang trên đường tới đất Thục, Hàn Tín vì bất mãn vì không được trọng dụng nên bỏ Sở theo Hán. Dưới sự tiến cử của Trương Lương, Hàn Tín được làm quan nhưng cũng không được Hán Vương coi trọng.

Hàn Tín đến đất Thục nhưng đã tự mình tiến cử với Hạ Hầu Anh. Sau khi hai người nói chuyện, Hạ Hầu Anh rất hài lòng nên tâu với Lưu Bang, và sau đó Lưu Bang đã phong Hàn Tín làm độ úy. Hàn Tín thường nói chuyện với Tiêu Hà, là tướng quốc của Lưu Bang. Sau khi Tiêu Hà nghe được câu nói của Hàn Tín, là một đại tướng phải có 5 tài là: trí, nhân, tín, dũng, trung, và tránh được 10 lỗi thì mới là tướng giỏi, Tiêu Hà rất bội phục Hàn Tín nên tiến cử với Hán Vương. Tuy nhiên, Hàn Tín tháy Tiêu Hà và Hạ Hầu Anh đã mấy lần tiến cử với Lưu Bang mà Lưu Bang vẫn không dùng mình nên tìm cách bỏ trốn. Tiêu Hà biết chuyện Hàn Tín bỏ trốn nên đích thân đi tìm mà không kịp báo cho Lưu Bang.

Lưu Bang coi Tiêu Hà như cánh tay phải đắc lực của mình nên thấy Tiêu Hà bỏ đi cũng đứng ngồi không yên. Hai hôm sau, Tiêu Hà về và giải bày với Lưu Bang, và ra sức tiến cử Hàn Tín. Lưu Bang mặc dù chưa tin rằng Hàn Tín sẽ là một vị tướng giỏi nhưng vì sự khẩn khoản của Tiêu Hà nên đã phong Hàn Tín làm đại tướng quân. Khi Hán vương làm trai giới, lập đàn để phong Hàn Tín, cả ba quân đều kinh ngạc và không nghĩ rằng người như Hàn Tín lại có thể làm đại tướng quân.

Sau khi Hàn Tín nhận phong xong đã phân tích cho Lưu Bang về những điểm mạnh, yếu của Hạng Vũ và đưa ra phương sách đánh Sở. Hán vương mới bắt đầu nhận ra tài năng của Hàn Tín, về sau mới biết được Trương Lương tiến cử nên Lưu Bang lại càng xem trọng.

Có thể nói Hàn Tín là một đại danh tướng bách chiến bách thắng. Ông đã làm nên rất nhiều chiến công lẫy lừng cho nhà Hán. Với sự phò giúp của Hàn Tín mà Lưu Bang mới có thể đánh Sở. Tuy nhiên, Lưu Bang vì sợ một người tài năng như Hàn Tín nên đã quyết tâm trừ khử Hàn Tín. Cuối đời, Hàn Tín bị triều đình kết tội mưu phản với Trần Hy, tuy nhiên sự thật là Lưu Bang và Lã Hậu đã bày đặt vụ hãm hại Hàn Tín vì công lao của ông quá lớn.

Thông tin/ profile đầy đủ và mới nhất của Hàn Tín được chúng tôi cập nhật liên tục. Các thông tin về Anh hùng chiến tranh Trung Quốc Hàn Tín có thể chưa đủ hoặc chưa chính xác và chỉ mang tính tham khảo, nếu bạn thấy thông tin là chưa chính xác, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ. Anh hùng chiến tranh Trung Quốc Hàn Tín là ai?, sinh năm bao nhiêu?, Hàn Tín sinh ra ở đâu?, Anh hùng chiến tranh Trung Quốc Hàn Tín bao nhiêu tuổi?… Bạn gái/ vợ/ người yêu Anh hùng chiến tranh Trung Quốc Hàn Tín là ai? Anh hùng chiến tranh Trung Quốc Hàn Tín và bạn gái, Hàn Tín và vợ con, Hàn Tín và người yêu

Bạn đang đọc nội dung bài viết Một Cách Nhìn Khác Về Chiến Tranh Trong Trường Ca Và Thơ Việt Nam Hiện Đại trên website Altimofoundation.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!