Đề Xuất 6/2023 # Loi Chuc Tet Cua Thien Chua :: Lời Chúc Tết Của Thiên Chúa :: # Top 9 Like | Altimofoundation.com

Đề Xuất 6/2023 # Loi Chuc Tet Cua Thien Chua :: Lời Chúc Tết Của Thiên Chúa :: # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Loi Chuc Tet Cua Thien Chua :: Lời Chúc Tết Của Thiên Chúa :: mới nhất trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Vào những ngày cuối tháng Giêng Dương Lịch 2009, nhìn chung quanh mình, nhìn hàng xóm, nhìn phố xá, nhìn những khu thương xá, người Việt Nam chợt nhận ra năm con trâu Kỷ Sửu lại thêm một lần nữa theo chu kỳ vòng quay tròn đều của trái đất đang ghé về thăm hỏi dân tộc Việt Nam.

Kỷ Sửu 2009, một con vật mới, một con số mới trong nấc thang của khái niệm thời gian nhắc nhở mọi người về phép lạ nhiệm mầu của đời sống; bởi bây giờ tháng Giêng, bên hải ngoại vẫn là tuyết là lạnh. Nhưng, không bao lâu nữa, nắng xuân của tháng Tư, tháng Năm rồi cũng sẽ quay về sưởi ấm nhân loại. Tháng Sáu mùa Hè sẽ tới. Khi đó trời mùa Hè ẩm thấp hơi nước sẽ bôi mỡ rin rít làn da. Tháng Chín, tháng Mười của mùa Thu sẽ lại đến. Khi đó thiên nhiên rộn ràng hòa tấu khúc giao hưởng của gió bấc gõ phím đàn chuyển cung màu lá xanh sang màu lá đỏ lá vàng. Cứ thế, nhân gian biến đổi: sinh ra-biến mất; khỏe mạnh-bệnh tật; trẻ măng-già lão. Cứ thế vòng bánh xe thời gian xoay tròn, xoay tròn. Hôm qua vẫn còn là Mậu Tý 2008. Bây giờ là năm 2009 của Mùng Một Tết Kỷ Sửu 2009. Cuộc sống tuần tự đi tới.

Chúa Giêsu phán, “Đừng lo lắng cho tương lai làm chi” (Matt 6:34). Giáo Hội Việt Nam có lý do riêng khi chọn bài đọc Phúc Âm Matt 6:25-34, bàn về những cái lo lắng không cần thiết, vào ngày Mùng Một Tết. Điều mà Giáo Hội muốn nhắc nhở và kêu gọi mọi người tín hữu trong ngày đầu Xuân là, “Hãy tỉnh thức! Hãy mơ với tương lai, nhưng hãy sống với hiện tại”, bởi vì đời sống tiếp tục xoay tròn theo vòng tròn của bánh xe thời gian. Ngày hôm qua đã là quá khứ. Ngày mai sẽ ra sao không ai biết! Thật vậy… Cho nên Chúa Giêsu mới nói đừng lo lắng cho tương lai, nhưng hãy sống với hiện tại.

Tuổi thơ luôn luôn mơ ước mình trở thành người lớn. Nhưng ngày đó sẽ tới dù chúng ta có muốn hay không muốn. Hãy tỉnh thức sống với giây phút hiện tại của tuổi ngây thơ trong trắng chưa nhìn đời với ánh mắt nghi ngờ, vẩn đục niềm tin.

Tuổi hai mươi hay mơ ước gặp gỡ người tình trong mộng. Người tình trong mộng rồi sẽ xuất hiện. Hãy sống với tuổi trăng tròn ươm mơ! Hãy tỉnh thức để nhận ra sức sống đang cuộn tròn, nhựa sống căng tràn trên khóe mắt.

Hãy tỉnh thức! Hãy tiếp tục mơ với tương lai, nhưng sống với hiện tại. Hãy tỉnh thức để nhận ra mình còn Bố, còn Mẹ. Hãy tỉnh thức để nhận ra mình có những người con đang vươn vai lớn nhanh nhanh. Hãy tỉnh thức để nhận ra phép lạ nhiệm mầu của trời và đất, xuân hạ thu đông bốn mùa thay đổi. Hãy tỉnh thức để nhận ra tiếng chim hót chào mừng bình minh bên khung cửa vào mỗi sáng sớm. Hãy tỉnh thức để nhận ra mình vẫn có cơm trắng gạo thơm. Hãy tỉnh thức để nhận ra sức khỏe vẫn còn đang sung mãn. Hãy hít vào, thở ra, để nhận ra hơi thở của Thiên Chúa đang cuồn cuộn dâng cao trong thể xác và trong linh hồn. Hãy tỉnh thức để mở một nụ cười thật tươi với chính bạn, với vợ, với chồng, và với con vào mỗi sáng sớm.

Đầu năm mới qua bài Phúc Âm của thánh lễ Mùng Một Tết, người Việt Nam có dịp lắng nghe Con Trời cất giọng chúc Tết người tín hữu Việt Nam khắp nơi, từ trong quốc nội ra tới hải ngoại. Ngài nói,

– Năm mới, Chúa chúc người tín hữu Việt Nam nhiều bình an và hạnh phúc trên con đường tìm kiếm Nước Trời. Đừng lo chi cho ngày mai, bởi vì tương lai sẽ lo cho tương lai (Matt 6:33-34).

Sống tỉnh thức, sống sung mãn, sống ý thức, và sống tràn đầy với phép lạ của đời sống trong giây phút hiện tại là một trong những lời chúc của Thiên Chúa gửi tới người tín hữu Việt Nam nhân ngày đầu Xuân của năm Kỷ Sửu 2009.

Lạy Chúa, trong ngày đầu Xuân Kỷ Sửu 2009, xin giúp chúng con tỉnh thức sống trọn vẹn với phép lạ nhiệm mầu của đời sống hằng ngày. Xuân về, xin tuôn đổ ơn trời xuống mặt đất để nhân loại trên toàn thế giới mau chóng bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của thanh bình và hạnh phúc.

chúng tôi

Lời Chúc: Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta

Dừng lại một chút, ta thấy những nghi thức này trong thánh lễ quá kỳ diệu.

Chúa ở cùng anh chị em là gì? Tại sao linh mục cần nhận lại lời cầu chúc:

– Và ở cùng cha.

Nhiều lần, nhiều nơi, trong nhiều thánh lễ, khi nói lời cầu chúc này, theo cách thế bên ngoài, thì có linh mục không nói bằng tâm hồn. Nói qua cho xong. Vì linh mục vừa nói, nhưng không đối thoại với giáo dân, thiếu chuẩn bị nên đang bận mở sách. Hoặc vì muốn chóng xong, cắt ngắn thời gian. Không có thời gian đón nhận lời giáo dân cầu chúc: Chúa ở cùng cha. Giáo dân đáp lại cho có lệ. Những lời chúc như thế trong thánh lễ nhạt nhẽo làm sao. Khi họ không tha thiết trong lời cầu chúc, thì làm sao dám nói họ thiết tha trong mong ước Chúa thật sự đến với người họ cầu chúc. Nếu vậy, Chúa ở đâu trong mối tương quan họ với Chúa, với nhau? Thiếu tha thiết trong lời cầu chúc, thì khó mà xác định mình thiết tha Chúa đến với người mình chúc. Từ đó, làm sao định nghĩa đấy là một thánh lễ sốt sáng.

Lời chúc: Thiên Chúa ở cùng chúng ta

Khi họ không nhận định kỹ “Chúa ở cùng anh chị em” là gì, thì làm sao rõ “Chúa ở cùng chúng ta”, và “Chúa ở cùng tôi” quan trọng đến đâu. Họ đánh mất ý nghĩa tên gọi EMMANUEL.

EMMANUEL là tên gọi của Thiên Chúa. Bởi đó, lời cầu chúc trong thánh lễ “Chúa ở cùng anh chị em” là lời rất quan trọng. Và, thánh lễ là gì nếu chúng ta để mất vẻ đẹp: Chúa ở cùng chúng ta?

– Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 2:24).

Khởi đầu Phúc Âm, Mátthêu giới thiệu tên của Thiên Chúa là Emmanuel, nghĩa là tên gọi đó được phiên dịch ra: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và rất đẹp, hôm nay chúng ta cụ thể hóa tên gọi đó trong lời chào của thánh lễ: “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.”

Kết thúc Phúc Âm, Mátthêu để chính Ðức Kitô tự nói về mình bằng lời chấm dứt như sau:

– Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt. 28:20).

Mở đầu và kết thúc một cuốn sách là dẫn vào và đưa tới cho người đọc toàn thể cuốn sách đó nói gì. Tư tưởng trọn gói ở đây, tên gọi của Thiên Chúa là ở cùng con người.

TÌNH YÊU VÀ Ở CÙNG

Thiên Chúa không yêu thương con người bằng cách từ trên cao nhìn xuống.

Thiên Chúa không cứu chuộc con người bằng cách ở trên cao vớt con người lên.

Thiên Chúa xuống thế làm người. Thiên Chúa ở cùng.

Trong cuộc sống nhân loại, con người thường cứu nhau bằng sức mạnh của kẻ hơn. Kẻ có sức mạnh hơn, nhìn xuống kẻ yếu. Tôi giàu có hơn, tôi giúp đỡ anh. Tôi khỏe mạnh hơn, tôi vớt anh lên.

Màu nhiệm tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Mà là một tình yêu ở cùng. Kinh Thánh chỉ định, tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng.

Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng mà không phải ở trên thương xuống?

Tại sao tình yêu lại không là nhìn xuống để vớt lên mà lại là cùng xuống để nhìn?

Người môn sinh ưu tư với những băn khoăn.

Nắng trong vườn đã ngả dạt qua bờ dậu. Ráng chiều hoàng hôn rũ xuống lòng người môn sinh trẻ đang tầm thầy học đạo. Anh đã viết về tình yêu, đã nghe về tình yêu. Nhưng tình yêu vẫn là một huyền nhiệm. Tình yêu là gì?

Người môn sinh nhớ câu chuyện xa xưa:

– Bạch thầy, chúng con không chấp nhận nó được, nó ăn cắp, nó láu cá, nó làm biếng. Xin thầy đuổi nó về.

Mấy chú đệ tử nhỏ báo cáo với thầy. Và vị thiền sư đã bảo:

– Nó không biết phải, không biết trái nên mới cần ở với thầy. . .

Phêrô cũng thế, đã có lần Ðức Kitô gọi Phêrô là Satan. Nhưng Ngài không đuổi Phêrô. Ngài bảo: “Lui lại đàng sau Thầy.” Lui lại phía sau, chứ không là đuổi đi xa. Vì Satan đang ở trong con, nên con cần ở cùng Thầy.

Ðời người là những chặng đường kiếm tìm. Huyền nhiệm cuộc sống mở ra như những cánh hoa. Một ngày không tìm kiếm là một ngày chết ủ. Cánh hoa phải mở ra, bật lên thành màu. Bấy giờ mới là cánh hoa. Cuộc sống cũng thế, những ấp ủ băn khoăn kia phải bật lên thành màu mới là cuộc sống. Và ta phải tìm kiếm. Tại sao tình yêu lại hệ tại ở cùng? Nhất là tên gọi kia của tình yêu Thiên Chúa. Tại sao lại là Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Ðể giúp người học trò tìm kiếm. Nhà đạo sĩ hỏi người học trò:

– Ngày con đau, mẹ con không là thầy thuốc. Bà không có quyền lực cứu con khỏi bệnh. Sao bà cứ đứng bên giường nhìn con, ngay cả khi con ngủ?

– Bạch thầy, vì thương con.

– Bà có chữa con hết bệnh được không?

– Bạch thầy, không.

– Không chữa được, vậy đứng đó làm gì?

Người học trò ngập ngừng.

– Bạch thầy, vì thương con.

– Thương, nhưng không làm sao chữa bệnh cho con được. Vậy thương là gì?

Người học trò bắt đầu hiểu. Tình yêu không cứ là “doing”, mà là “being.” Nghĩa là ở cùng. Thật ra, ở cùng, không phải là không làm gì. Bởi “ở cùng – being” đúng nghĩa là sự hiện hữu trọn gói. Khi linh mục nói “Chúa ở cùng anh chị em”, mà chỉ nói vì công thức cho qua. Như thế, sẽ là có “doing” đó, nhưng vắng mặt của “being.” Khi bà mẹ nhìn con ngủ trong cơn đau. Cứ chốc chốc, bà đến bên giường nhìn con ngủ. Bà không có năng lực chữa bệnh cho con. Bà không “doing” được điều gì theo nghĩa sản xuất. Bà chỉ hiện diện trọn gói tâm hồn bà ở đó. Ðấy là chiều sâu của ngôn ngữ ở cùng, là “being.”

Trong cuộc sống, tôi cần một người nhìn tôi. Nói với tôi là cuộc sống, có họ ở cùng với tôi. Người vợ dọn cơm chiều, chỉ mong chồng về, đến bên cạnh, thầm nói rằng “anh ở cùng em.” Buổi chiều đó có thể trở thành hương hoa. Họ cần cái ở cùng này. Người ta kinh nghiệm trong cuộc sống thực như thế. Không ai chỉ hạnh phúc bởi tấm pay check, có “doing” mà không có “being”. Trong nỗi đau, con người thường kêu:

– Lạy Chúa, xin cất chén đắng này cho con.

Họ muốn Thiên Chúa “doing”. Chúa hãy lấy quyền năng mà hành động. Nếu Chúa không cất nỗi đau cho con mà chỉ “being”, nghĩa là chỉ đau với con thôi thì có ích gì. Người ta lý luận tình yêu thì phải cụ thể bằng hành động. Chúa thương tôi, Chúa phải hành động, xin hãy tặng tôi những món quà tôi xin. Tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Thay vì cứu con người khỏi chết thì lại chết với con người. Thay vì cứu con người khỏi đau thì lại đau với con người. Trong nỗi bực dọc, con người oán trách Thiên Chúa. “Ông không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với! (Lc. 23:39). Con người thách thức Thiên Chúa, cứu tôi đi, nếu thực sự thương tôi. Rồi tôi sẽ tin. Ðức Kitô không lấy quyền năng để cứu những tiếng kêu này. Ngài cũng không lấy quyền năng thoát khỏi cái chết này.

Tại sao tình yêu không là cứu người mình yêu khỏi chết, mà là chết cùng?

Trước khi tiếp tục đề tài. Vị đạo sĩ nhắc người học trò về một kinh nghiệm:

– Nỗi đau là không có ai đau cùng, chứ chưa hẳn là không có ai cất cho mình nỗi đau. Làm sao con có năng lực làm cho người chết sống lại? Con không cất được nỗi đau đó. Nhưng nếu con đau cùng, “being” bên cạnh người đang đau. Thì nỗi đau kia nhẹ vơi. Làm sao trong tình yêu mà người ta nói: Anh không cất được nỗi đau của em. Rồi người đàn bà đi sanh con một mình. Người đàn ông rất thực tế. Tôi không sanh con thay vợ tôi được. Tôi không “doing” gì được. Ông ở nhà đi câu.

Hạnh phúc và đau khổ không là cứu, là cho, mà là ở cùng.

Thiên Chúa ở cùng.

Người học trò im lặng suy nghĩ. Anh lắng nghe. Trong cái tĩnh mịch, anh mơ hồ nhìn thấy từ vùng im lặng đó, bật lên màu sắc của cuộc sống. Như những cánh mỏng thức giấc dần, bật màu thành bông hoa. Vị tôn sư như sợ người học trò ngần ngại với lời mình. Ông cắt nghĩa thêm:

– Thầy giả sử một vị tổng thống quyền uy, ông chỉ gật đầu, gia nhân của ông sẽ đem những người tỵ nạn vào nước ông. Ðó là cách nhìn xuống. Ðó là cách vớt lên. Nhưng giả sử, vị tổng thống ấy nghe tin còn mấy trăm người tỵ nạn mười mấy năm bơ vơ không quê hương. Nghe tin, ông tội nghiệp. Ông bỏ văn phòng. Ông đến với người tỵ nạn. Ông hỏi người tỵ nạn làm gì kiếm sống qua ngày. Dạ thưa ngài, tôi làm nghề rửa xe. Ðể hiểu, hiểu để thương, ông tổng thống quyền uy kia, mặt mũi lấm lem, quẹt mồ hôi, tóc bù xù dính dầu nhớt xăng, cũng chầu chực rửa xe, cũng ở bến xe, cũng gặm bánh mì. Con có thể hình dung một tổng thống nào dám làm thế không?

Người học trò im lặng hơn. Trong tâm trí anh. Anh không thể hình dung có chuyện đó. Anh hiểu ý vị tôn sư đang muốn nói, Thiên Chúa đã làm như vậy. Ðó là ý nghĩa EMMANUEL, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Khi cho một món quà là cho một phần tài sản. Khi cho chính mình là cho hết. Không thể cho hết khi mình không cùng giống thân phận người đó. Bởi thế, vô cùng tuyệt vời khi Phúc Âm tường thuật về người lính canh như sau:

Ðức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. (Mc 15: 37).

Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói:

Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15: 39).

Hai sự kiện đặc biệt trong cụm từ “Tắt Thở” mà ta phải kiếm tìm.

– Thứ nhất, lúc tạo dựng con người. Thiên Chúa thở hơi, cho Ađam sự sống. Bấy giờ Thiên Chúa chỉ cho một chút hơi thở. Nhưng ở đây, Ngài không cho một chút hơi, mà Tắt Thở. Nghĩa là cho hết không còn hơi để thở. Như thế, tên gọi EMMANUEL, càng ngày theo chiều lịch sử cứu độ càng trở nên rực rỡ. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, lời tung hô ấy như ngọn pháo bông muôn màu bật tung lên trong thánh lễ.

– Sự kiện thứ hai là viên đội trưởng, lính canh nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa khi Ngài “Tắt Thở”. Tắt thở là giây phút yếu nhất của một đời người. Ðáng nhẽ ông ta phải nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong những việc quyền năng, những phép lạ lớn lao. Tại sao lại nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong giây phút yếu đuối nhất?

Vị tôn sư nói với người học trò:

– Con ạ, hình ảnh người lính canh ở đây cho chúng ta một chiều sâu thiền niệm mà không biết ngọn núi cao nào, không biết vùng thinh lặng nào mới chỉ bảo cho chúng hết ý nghĩa. Trong giây phút yếu nhất ấy của Chúa Kitô, ông ta nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta quá yếu đuối tâm linh nên không nhìn ra sức mạnh trong sự yếu đuối như người lính canh.

Trời đã vào khuya, hai thầy trò, vị tôn sư và người thanh niên tầm thầy học đạo như thả hồn mình về biến cố hai nghìn năm trước trước mầu nhiệm Tắt Thở của một người. Trong tâm trí anh, anh không thể nào hình dung vị tổng thống kia dám trở nên yếu đuối như một người tỵ nạn được. Anh bắt đầu hiểu hơn, vị tổng thống ấy chỉ có thể thương xót bằng từ trên nhìn xuống, bằng từ trên vớt lên. Ông ta không thể xuống để ở cùng.

Ở cùng là trở nên một thân phận. Ðấy là chiều sâu khó nhất của tình yêu. Khó nhất mà cũng đẹp nhất. Phải trở nên thân phận thì mới hiểu. Hiểu mới có thể thương. Trong ý nghĩa này, thương bao giờ cũng phải là ở cùng.

Người học trò, như vẫn ưu tư. Nếu tình yêu là ở cùng. Tại sao Ðức Kitô lại kêu lên trong giờ sau hết: “Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?”

Vị tôn sư như đọc hết ý nghĩ thầm kín của học trò mình. Ông ôn tồn bảo:

Chiều sâu của tình yêu là ở cùng. Ðêm nay trời đã vào khuya. Con về ngủ đi. Tại sao Chúa Cha không lấy quyền năng như lời Ðức Kitô cầu xin, cất chén đắng này cho con?

Tại sao Chúa Kitô như quá cô đơn vậy?

“Lạy Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?” Ðâu là ý nghĩa ở cùng?

Ðây là Tình Yêu và Quyền Năng. Chúng ta sẽ nói tới.

Trời khuya rồi. Ðêm thường nói với chúng ta nhiều ý nghĩa cuộc sống. Ðêm nói về thân phận mù lòa, vất vả đi tìm. Những giờ phút tăm tối cuộc sống, khổ làm sao. Nhưng nhờ đêm mà ta phải khắc khoải. Nhờ khắc khoải tìm kiếm mà hồn ta mới thức giấc. Và con ạ, không bao giờ đêm dài bất tận. Ngày mai có ánh bình minh.

Vị tôn sư đi về am thất. Người học trò vẫn ngồi lại. Anh đang nhìn vào cõi sáng của bóng đêm. Thứ cõi sáng và bóng đêm của riêng anh.

Từ lời cầu chúc “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.” Thánh lễ phải là mầu nhiệm diễn tả tên gọi làm người của Thiên Chúa, EMMANUEL, Chúa ở cùng chúng ta. Mỗi thánh lễ, nếu ta trân trọng trong lời chào này, thì thánh lễ quá ngọt ngào. Thánh lễ là một diễn giải tuyệt vời mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta hạnh phúc nối tiếp bí tích kỳ diệu đó qua những lời chào mang cả một chiều kích thần học rất sâu:

– Chúa ở cùng anh chị em. – Và ở cùng cha.

Tình Yêu Của Thiên Chúa Ðối Với Ta

TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA

ÐỐI VỚI TA Loạt bài suy niệm sau đây lấy ý trong: R. Cantalamessa, La vie dans la seigneurie du Christ, Les éditions du Cerf, 1990. Tác giả dựa vào thư Rôma, đề nghị một cuộc hành trình tái phúc âm hoá và canh tân đời sống đức tin, dành cho mọi kitô hữu. Làm sao cho mỗi người, nhờ những ân sủng đã lãnh nhận trong bí tích Rửa Tội, được thư Rôma khơi lại, cuối cùng trở thành một tạo vật mới, không còn sống cho mình, nhưng là sống cho Chúa.

Khi phải vắn tắt loan báo một tin gì, nhất là tin khẩn cấp, bao giờ người ta cũng đi thẳng vào điều chính, điều cốt yếu, không dài dòng văn tự, không đi từ đầu đến cuối. Cái đó để sau. Lý do, hoàn cảnh này khác của sự việc cũng để sau. Ðiều cốt yếu mới là điều dân chúng mong đợi hay cần biết ngay. Chẳng hạn, đang chờ kết quả của một trận bóng đá của đội nhà, chỉ cần đưa tin: thắng rồi. Sau đó mới dần dà hỏi thêm: tỉ số bao nhiêu, bên nào chơi đẹp, cầu thủ nào ghi bàn, có nghi bán độ không . . .

Khi loan báo Tin Mừng của Chúa, Phaolô cũng đã làm theo cách này ngay đầu thư Rôma. Coi mình như là sứ giả đưa một tin chiến thắng vĩ đại nhất, Phaolô chỉ vội vàng nói lên mấy chữ: “Kính gửi tất cả anh em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Rm 1,7).

Thoạt nghe, chúng ta tưởng là một lời chào bình thường, như vẫn có ở đầu mỗi lá thư. Nhưng nếu để ý, ta thấy những lời trên chứa đựng một tin vui mới. Tin vui mới đó là thế này: Các tín hữu Rôma là những người được Thiên Chúa yêu thương, đã có sự bình an vĩnh viễn, đang được sống trong ân sủng. TÌNH YÊU, BÌNH AN, ÂN SỦNG, những từ chứa đựng tất cả sứ điệp Tin Mừng. Không những chúng truyền đạt các chân lý, mà còn tạo ra một tình trạng tâm hồn: một tâm hồn bình an vì được Thiên Chúa yêu thương và đang sống trong ân sủng.

Ðây cũng là Tin Vui rất quan trọng cho chúng ta hôm nay. Thiên Chúa cũng yêu thương ta, ban cho ta ân sủng và bình an như là hoa quả của tình Ngài yêu ta. Thế nhưng, nếu thành thật nhìn lại đời sống của mình, chúng ta phải nhận ra rằng thời gian và những thói hư nết xấu đã làm cho chúng ta ra chai lỳ. Phần nào giống như lời Isaia đã nói: “Ngươi vốn là kẻ cứng đầu, cổ ngươi là thanh sắt, trán ngươi làm bằng đồng” (Is 48,14). Cứng đầu cứng cổ, ương ngạnh chai lỳ như thế đâu có được! Phải uốn nó. Uốn thế nào? Sắt và đồng không thể để nguyên vậy mà uốn. Phải đưa vào lò, nung cho nó mềm ra. Lò chúng ta dùng ở đây, để uốn cổ cứng của ta, là lò lửa tình yêu của Thiên Chúa. Rồi phải dùng búa mà đập, mà rèn. Búa ở đây chính là lời Chúa. Ta sẽ chịu đựng được hết khi thấy mình thực sự được Thiên Chúa yêu thương.

Chúng ta tiếp thu sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa, một sứ điệp rất quan trọng, qua mấy ý tưởng rải rác trong thư Rôma:

– Chúng ta là “những người được Thiên Chúa yêu thương” (Rm 1,7)

– “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta” (Rm 5,5)

– “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm 8,39)

Ba câu trên có liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên một diễn từ xuyên suốt lá thư, như một sứ điệp riêng trong một sứ điệp.

* Kiểu nói “tình yêu Thiên Chúa” có hai nghĩa rất khác nhau. Hoặc Thiên Chúa là đối tượng của tình yêu (yêu Chúa). Hoặc Ngài là chủ thể của tình yêu (Chúa yêu). Con người chúng ta thường hướng tới chỗ tích cực hơn tiêu cực, năng động hơn thụ động. Vì vậy, luôn ưu tiên nhấn mạnh nghĩa thứ nhất, tức bổn phận phải yêu Chúa, để nói lên hành vi tích cực của mình đối với Chúa. Giảng thuyết kitô giáo cũng rập theo chiều hướng này. Có những thời kỳ hầu như chỉ nói về việc yêu Chúa, với những mức độ của tình yêu này.

Tuy nhiên, mạc khải lại dành ưu tiên cho nghĩa thứ hai, tức tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, chứ không phải tình yêu của con người đối với Thiên Chúa. Thư thứ nhất của Gioan viết: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng là chính Người đã yêu thương chúng ta” (1Ga 4,10). Thế nên ta phải lập lại thứ tự được lời Chúa mạc khải, tức phải nhấn mạnh “ân huệ” trước “lệnh truyền”, nhấn mạnh tình yêu của Thiên Chúa đối với ta, trước khi nói đến bổn phận của ta phải yêu mến Chúa. Thiên Chúa yêu thương ta: đó mới là điều chính, đó mới là điều mà mọi sự khác phải tuỳ thuộc, kể cả khả năng của ta yêu mến Chúa, như cũng Gioan còn viết: “Chúng ta hãy yêu mến, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19).

* Ðể hiểu Chúa yêu ta như thế nào, phải nại tới mạc khải. Quả thực, ngoài một mình Thiên Chúa ra, ai có thể bảo đảm với ta là Ngài yêu ta. Theo Augustinô, tất cả Kinh Thánh chỉ là bản “tường thuật tình yêu của Thiên Chúa”. Kinh Thánh tràn ngập tình yêu của Thiên Chúa. Chính tình yêu này giải thích mọi sự khác, cắt nghĩa vì sao có tạo dựng, có nhập thể, có cứu chuộc . Nếu thay vì là chữ viết, cả cuốn Kinh Thánh trở thành tiếng nói, và nếu có thể thu gọn vào một vài tiếng mà thôi, thì những tiếng ấy sẽ là: Thiên Chúa yêu ta. Ðức Giêsu cũng đã diễn tả vắn gọn như thế khi Ngài nói: “Chúa Cha yêu thương anh em” (Ga 16,27). Mọi sự Thiên Chúa nói và làm trong Kinh Thánh đều bày tỏ tình yêu của Ngài, vì Ngài là Tình Yêu. Cho nên, “biết Thiên Chúa hiện hữu chưa phải là điều quan trọng, biết Ngài là Tình Yêu mới quan trọng” (S.Kierkegaard).

Nại tới mạc khải tức là phải đọc Kinh Thánh. Ðể hiểu tất cả sự phong phú và sâu sắc của lời Chúa, phải đọc cả Tân Ước lẫn Cựu Ước, hoặc thực tế hơn, đọc Tân Ước dựa vào ánh sáng của Cựu Ước. Nhờ hiểu được ảnh hưởng hỗ tương giữa Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta mới hiểu hơn ý nghĩa của kiểu nói “được Thiên Chúa yêu thương”. Trước đây, Israel là dân được Thiên Chúa yêu thương. Nay, Phaolô nói: tín hữu Rôma, hoặc các kitô hữu nói chung, cũng là những người được Thiên Chúa yêu thương, tức là Phaolô muốn gán cho Giáo Hội mọi đặc quyền đặc lợi của tình yêu Thiên Chúa, mà Israel đã được hưởng trong Cựu Ước. Hoặc nói đúng hơn, Thiên Chúa cho chúng ta được dự phần vào đặc ân này.

Trong Cựu Ước, mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa thường được thể hiện qua các ngôn sứ, là những người được tuyển chọn và chuẩn bị ngay từ trong lòng mẹ, để có thể đảm đương nhiệm vụ cao cả này. Qua các ngôn sứ, Thiên Chúa nói cho chúng ta về tình yêu của Ngài. Một điểm đáng lưu ý: trong mạc khải qua các ngôn sứ, Thiên Chúa không luôn luôn nói trực tiếp ở ngôi thứ nhất. Thường ra là chính ngôn sứ xét đoán, truyền lệnh, đe doạ, cho dù ông làm thế nhân danh Thiên Chúa. Nhưng nếu là về tình yêu của Thiên Chúa, thì thường là chính tiếng Thiên Chúa nói: Ta yêu thương ngươi. Ta sẽ đính ước với ngươi . Dường như về tình yêu này, các ngôn sứ phải thinh lặng, để một tiếng nói khác uy lực hơn thay thế tiếng nói của các ông, và chính các ông cũng lắng tai nghe. Vậy ngôn sứ là người đầu tiên đón nhận mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa.

* Qua mạc khải của Cựu Ước, đặc biệt qua các ngôn sứ, ta có thể thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với ta có những đặc tính này:

–Tình yêu của người cha, người mẹ.“Khi Israel còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó. Ta đã tập đi cho Ephraim, đã đỡ cánh tay nó. Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo nó. Ta xử với nó như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má. Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn” (Hs 11,1-4).

Có lẽ ai trong chúng ta cũng đều đã từng thấy cảnh cha mẹ nựng con, chăm sóc cho con nhỏ qua một vài hình ảnh được nêu ra trên đây: bồng bế trên tay, nhấc lên hôn hít, mớm đút cho con ăn. Áp dụng những hình ảnh đầy biểu tượng trên đây cho Thiên Chúa có thể gợi cho ta thấy tình yêu của Thiên Chúa như của một hiền phụ, hiền mẫu.

Khi Israel vong ân bội nghĩa, tỏ ra bất trung thì, giá là con người, chắc phải nổi tam bành lên. Thiên Chúa thì không. Nhưng “Trái tim ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi (cha Thuấn dịch: Lòng Ta đảo lộn trong Ta, và mối chạnh thương sôi réo cả lên!). Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm” (Hs 11,8-9). Chúng ta có bất trung thì Ngài vẫn thành tín, vì Ngài không thể chối chình mình. Giêrêmia cũng diễn tả bằng một kiểu cách tương tự (Gr 31,20).

Tình yêu của cha thì đầy khích lệ và ân cần săn sóc (nói chung là thế), và cũng thường sửa dạy con để nó khỏi hư thân mất nết. Thiên Chúa cũng sửa dạy người Ngài yêu. Nhưng không chỉ có vậy. Ngài còn là Ðấng bảo đảm, bảo vệ ta. Trong cả Kinh Thánh, Ngài luôn xuất hiện như “đá tảng”, như “đồn luỹ” (Tv 18,2-3). Ðó là một tình yêu có mầu sắc nam tính, như từ hesed diễn tả, cho thấy một Thiên Chúa dũng mạnh và trung thành, một Thiên Chúa làm cho ta cảm thấy được an ninh, bảo đảm.

Còn tình yêu của mẹ thì đón nhận và dịu dàng. Một tình yêu từ ruột từ gan, từ lòng dạ đã nặn đúc nên hình hài của đứa con. Ðó chính là ý nghĩa của từ rachamim trong tiếng hipri. Yêu con, vì đó là con mình, do lòng dạ mình sinh ra. Dù con có phạm tội tày đình nào đi nữa, nếu biết hối lỗi trở về, thì phản ứng đầu tiên của người mẹ là mở rộng vòng tay ôm lấy nó, Dầu sao nó vẫn là con mình. Chính người mẹ sẽ đứng ra xin với chồng nhận lại đứa con.

Nơi con người chúng ta, hai mẫu tình yêu đó thường được phân chia tương đối rõ và bổ sung cho nhau. Ðứa con nhỏ nào còn cả cha lẫn mẹ quả là có phúc. Chỉ tội cho người cha hay người mẹ nào phải một mình thể hiện cả hai mẫu tình yêu đó. Nơi Thiên Chúa, chúng kết hợp với nhau. Do vậy ta hiểu vì sao tình yêu của Thiên Chúa có khi được diễn tả qua hình ảnh tình yêu của người mẹ. Dụ ngôn tình phụ tử trong Luca (15,11tt) cho thấy, nơi khuôn mặt của người cha già, những nét của một Thiên Chúa vừa là cha vừa là mẹ. Nói đúng ra, người cha trong dụ ngôn này có tâm tình và thái độ của người mẹ hơn của người cha.

-Tình yêu vợ chồng . Ðây là tình yêu mà những ngọn lửa của nó, lửa hoả hào, “mãnh liệt như tử thần” (Dc 8,6). Thiên Chúa yêu ta như người chồng yêu vợ mình. Tình yêu vợ chồng có lúc thăng lúc trầm: say mê tươi mát thuở đầu, niềm vui ngày cưới, nhưng lại có lúc tưởng như đoạn tình dứt nghĩa. Kinh Thánh cũng diễn tả tình yêu của Thiên Chúa bằng những hình ảnh trên đây (x.Gr 2,2; Is 62,5; Hs 2,4tt), nhưng cuối cùng vẫn là phục hồi, đầy hy vọng về tình yêu ngày trước: “Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót” (Is 54,8).

Một nét đặc trưng của tình yêu vợ chồng là sự ghen tuông. Quả thực, Kinh Thánh thường quả quyết Thiên Chúa là một Ðấng cả ghen (Xh 20,5.). Nơi con người, ghen là một dấu chỉ yếu đuối. Người ghen sợ cho chính mình, sợ một người khác hấp dẫn hơn chiếm đoạt trái tim của người mình yêu. Thiên Chúa thì không sợ cho mình, nhưng sợ cho chúng ta. Không sợ cho sự yếu đuối của mình, nhưng sợ cho sự yếu đuối của ta, sợ ta chạy theo ngẫu tượng. Theo Kinh Thánh, thờ ngẫu tượng dưới bất cứ hình thức nào đều là đối thủ đáng gờm cạnh tranh với Thiên Chúa. Sự cả ghen nơi Thiên Chúa không phải là một dấu chỉ bất toàn, nhưng chỉ nói lên tình yêu và lòng nhiệt thành của Ngài.

-Tình yêu khiêm tốn và nhưng không (gratuit). Ngoài những đặc tính trên đây, tình yêu của Thiên Chúa còn có đặc tính khiêm tốn và nhưng không. Khi mạc khải tình yêu thì đồng thời Thiên Chúa cũng mạc khải sự khiêm tốn của Ngài. Theo nghĩa này: Thiên Chúa là Ðấng đi tìm con người, tha thứ cho họ, sẵn sàng bắt đầu lại mọi sự. Yêu luôn luôn là một hành vi khiêm tốn. Người bắt đầu yêu là một người đi ăn xin. Dường như người đó muốn nói với người mình yêu rằng: Hãy cho anh (em) con người của em (anh), vì con người của anh (em) không đủ.

Nhưng sao Thiên Chúa lại đi yêu, lại phải khiêm tốn như vậy? Phải chăng Ngài thấy mình không đủ, còn cần một sự gì khác, một con người khác? Không phải. Ngược lại, tình yêu của Ngài hoàn toàn có tính cách nhưng không. Ngài yêu ta, không phải để làm cho mình được đầy đủ, nhưng làm cho ta được đầy đủ. Ngài yêu ta vì Ngài là Sự Thiện, và Sự Thiện thì muốn được toả rộng. Ðặc tính này của tình yêu nơi Thiên Chúa là độc nhất, không bắt chước được. Irênê có viết một trang về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, mà Giáo Hội hôm nay vẫn không ngừng suy niệm: “Thiên Chúa không tìm kiếm tình bạn của Abraham vì cần nó, nhưng vì nhân từ muốn ban cho Abraham sự sống đời đời. Cũng thế, Thiên Chúa đã tạo nên Ađam không phải vì cần con người, nhưng là để có một người mà Ngài tuôn đổ hồng ân trên người đó.”

Trước mầu nhiệm khôn dò khôn ví của tình yêu này, ta hiểu vì sao tác giả Thánh Vịnh phải ngạc nhiên tự hỏi: “Phàm nhân là gì để Người nhớ đến, con người là gì để Người phải bận tâm?” (Tv 8,5).

Như vậy, việc suy niệm tình yêu của Thiên Chúa qua Kinh Thánh trở thành trường học tốt nhất dạy ta yêu thương. Nếu tình yêu của con người là biểu tượng cho tình yêu của Thiên Chúa, thì tình yêu của Thiên Chúa lại là kiểu mẫu cho tình yêu của con người. Biết và nhìn đến tình yêu của Thiên Chúa là chính Tình Yêu, một tình yêu mãnh liệt, thắm thiết, bền bỉ, nhưng không, chúng ta sẽ nhận ra tình yêu của ta phải như thế nào, đối với Chúa và đối với nhau.

* Chúng ta không chỉ là những người được Thiên Chúa yêu thương, nhưng hơn thế nữa, tình yêu của Thiên Chúa còn đổ tràn vào lòng ta. Ðây là một thực tại mới mẻ và hiện tại, chứ chúng ta không chỉ thuần tuý là những người thừa hưởng tình yêu của Thiên Chúa nơi Israel. Khởi điểm của thực tại mới này là chính Ðức Giêsu Kitô: “Ngài đã mang đến tất cả sự mới mẻ khi mang đến chính con người của Ngài” (Irênê).

Qua Ðức Giêsu, tình yêu của Thiên Chúa đến ở giữa ta. Và từ đây, tình yêu ấy ở trong lòng ta. Trước, giữa tình yêu của Thiên Chúa và ta có hai bức tường ngăn cách, không cho phép ta hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa: bức tường bản tính (Thiên Chúa là Thần Trí và ta là xác thịt) và bức tường tội lỗi (nơi ta). Nay, qua việc Nhập thể, Ðức Giêsu đã phá bỏ bức tường bản tính; qua cái chết Thập giá, Ngài đã phá bỏ bức tường tội lỗi. Do đó, không còn gì ngăn cản Thần Khí và tình yêu của Thiên Chúa đổ vào lòng ta. Nói như Augustinô, Thiên Chúa trở thành “sự sống của linh hồn tôi, sự sống của sự sống tôi, thân mật với tôi hơn chính tôi”.

Trước tình yêu của Thiên Chúa ùa vào lòng ta, ta thấy một tình cảm mới mẻ và lạ lùng phát sinh nơi ta. Ðó là tình cảm chiếm hữu. Ta chiếm hữu tình yêu của Thiên Chúa. Nói đúng hơn, ta được tình yêu của Ngài chiếm hữu.

Các ngôn sứ đã từng loan báo hành vi chiếm hữu này của Thiên Chúa, chẳng hạn Êzêkiel: “Các ngươi sẽ là dân của Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi” (Êd 36,28). Giờ đây, tất cả đã được thực hiện. Thiên Chúa trở thành Thiên Chúa chúng ta theo một cách thức hoàn toàn mới mẻ. Nhờ ân sủng, chúng ta chiếm hữu Thiên Chúa.

Ðây là sự phong phú tột đỉnh của tạo vật, là tước hiệu vinh quang lớn lao nhất của tạo vật. Dám nói rằng chính Thiên Chúa cũng không được như vậy. Vì sao? Là vì, Thiên Chúa “là” Thiên Chúa, nhưng Ngài không “có” một Thiên Chúa khác để tự hào, để thán phục, để tán dương. Trái lại, con người “có” Thiên Chúa. Ở đây, sự khác biệt giữa Thiên Chúa và ta chính là ở chỗ “là” và “có”. Nói đúng ra, Thiên Chúa cũng có một Thiên Chúa để vui mừng, tự hào, vì Thiên Chúa cũng có Ba Ngôi: Chúa Cha có Chúa Con là Con mình, Chúa Con có Chúa Cha là Cha mình. Nhưng “có” nơi Thiên Chúa theo một nghĩa hoàn toàn khác với “có” ở nơi chúng ta (Chồng có vợ: hai người, Cha có Con: chỉ một Thiên Chúa).

* Nhưng tình yêu mà Thiên Chúa đổ vào lòng ta, ngày ta chịu phép Rửa Tội, là tình yêu nào? Ðây là chính tình yêu nơi Thiên Chúa, là ngọn lửa cháy trong lòng Ba Ngôi, giờ đây đến với ta, cư ngụ trong ta, để cho ta tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. “Cha của Thầy yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Chúng ta trở thành những người “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4), nghĩa là thông phần tình yêu của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Một cách mầu nhiệm, chúng ta được đưa vào trong tình yêu của Ba Ngôi, đi vào hoạt động không ngừng tự hiến và đón nhận nhau giữa Chúa Cha và Chúa Con.

Lời của Phaolô (Thiên Chúa đã đổ tình yêu.) chỉ thực sự hiểu được một cách sâu sắc dựa vào lời Ðức Giêsu: “để tình Cha đã yêu thương Con ở trong chúng” (Ga 17,26). Vậy tình yêu được đổ vào lòng ta chính là tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con tự muôn đời. Không phải tình yêu nào khác đâu, nhưng là tình yêu của Ba Ngôi đổ xuống trên ta. Ðây là điều chính yếu đem lại hạnh phúc cho ta, ngay từ bây giờ cũng như sau này. Là vì, ngay từ bây giờ, nhờ đức tin, chúng ta chiếm hữu tình yêu của Thiên Chúa như của đầu mùa. Còn sau này, chúng ta chiếm hữu cách viên mãn trong đời sống vĩnh cửu.

Thử lấy một việc nơi con người làm ví dụ. Cái gì mang lại niềm vui, hạnh phúc và bảo đảm nhất cho một người con trong gia đình, nếu không phải là tình yêu hỗ tương giữa cha và mẹ nó? Tình yêu này con quan trọng đối với nó hơn là tình yêu của cha hay mẹ dành cho nó, nếu như nó đã biết suy nghĩ. Cha và mẹ, từng người một, có thể yêu con mình như họ muốn. Nhưng nếu họ không yêu nhau, đứa con cũng cảm thấy bất hạnh và không được bảo đảm. Ðứa con không muốn được yêu bằng tình yêu của riêng cha hay của riêng mẹ, nhưng muốn được nhận vào tình yêu kết hợp cha và mẹ nó, vì biết rằng chính tình yêu này đã là nguồn gốc sinh ra nó, biết rằng nó là kết quả của tình yêu giữa cha và mẹ nó.

Từ điểm này, chúng ta thấy được một mạc khải vĩ đại: các Ngôi trong Ba Ngôi yêu nhau bằng một tình yêu vô biên, và các ngài cho ta chia sẻ tình yêu của các Ngài. Các Ngài nhận ta vào bàn tiệc sự sống. Vinh dự và hoan lạc của ta, chính là ở đó.

* Thiên Chúa yêu thương ta: ngày xưa các ngôn sứ đã loan báo và nhắc nhở điều ấy, còn ngày nay là các thánh. Các thánh, đặc biệt các nhà thần bí, có sứ mệnh chính yếu là nói cho ta về tình yêu của Thiên Chúa, làm cho ta thấy ít nhiều tình yêu này mà, tự ta, ta không nhận ra. Ðáng tiếc là dân Chúa ít quan tâm tới các ngài. Người ta thường thích các thánh làm phép lạ, chạy đến với các vị này hơn là đến với các nhà thần bí, những ngôn sứ của thời đại mới, những chứng nhân ưu tuyển về tình yêu của Thiên Chúa.

Có lẽ không một ai hơn thánh nữ Catarina Siêna giúp ta xác tín rằng chúng ta được tạo dựng bởi tình yêu. Thánh nữ cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Cha hằng hữu, làm sao Cha lại đã dựng nên tạo vật của Cha? . Thực con thấy, cũng như Cha chỉ cho con thấy, là Cha đã làm điều ấy không vì lý do nào khác hơn là . cha thấy Cha bị ngọn lửa tình yêu thúc bách ban hữu thể cho chúng con, mặc cho những tội lỗi mà chúng con xúc phạm đến Cha.”

Dựa vào những lời trên, có thể nói, tôi chẳng cần nhìn ở bên ngoài để tìm ra bằng chứng Thiên Chúa yêu tôi. Chính tôi là bằng chứng. Chính hữu thể của tôi, sự hiện hữu của tôi là bằng chứng Thiên Chúa yêu tôi. Hữu thể của tôi, tự nó, là một ân huệ của Thiên Chúa. Lấy đức tin mà nhìn vào chính mình, chúng ta có thể nói (nhại theo câu của Descartes: Cogito, ergo sum) : Tôi hiện hữu, vậy tôi được yêu. Ðược ai yêu? Thiên Chúa.

Dĩ nhiên, không phải ai cũng coi việc tạo dựng như một ân huệ của tình yêu đâu. Và chính chúng ta, những tín hữu của Chúa, có thể không thấy rõ điều đó, dù Thiên Chúa vẫn muốn cho từng người khám phá ra chân lý.

May thay, chúng ta còn có các thánh, các nhà thần bí, được Chúa trao cho sứ mệnh, trong từng thời kỳ, nhắc nhở cho người khác tình yêu của Thiên Chúa. Các nhà thần bí giống như những người thám báo nói trong sách Giosuê. Ðây là những người đầu tiên được cử đi lén lút vào Ðất Hứa, và khi về thì kể lại những gì tai nghe mắt thấy về một miền đất chảy sữa và mật, để kích thích dân Chúa vượt qua sông Giođanô (Gs 2,1tt).

Các nhà thần bí đã cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa như sữa và mật, và nói cho chúng ta. Nhiệm vụ của các ngài gần giống với nhiệm vụ của các ngôn sứ trong Cựu Ước. Chắc hẳn các ngôn sứ nhắc lại tình yêu của Thiên Chúa đối với dân trong quá khứ, nhưng không chỉ dừng lại ở quá khứ, mà đồng thời còn loan báo một sự hoàn tất tương lai, mời gọi người ta hướng tới tương lai, tới thời kỳ viên mãn. Giữa lòng dân Chúa hôm nay, các nhà thần bí cũng làm như vậy. Các ngài đưa ta tới tương lai, tới sự hoàn tất tình yêu của Thiên Chúa, hé mở cho ta điều sẽ xẩy ta, nhưng vẫn không quên nói cho ta điều đã xẩy ra, tức là tình yêu của Thiên Chúa đã và đang đổ vào lòng ta. Phải thật sự nhớ ơn các ngài.

* Bằng lời trên đây, chúng ta đi từ chỗ suy niệm thuần tuý về tình yêu của Thiên Chúa đến cuộc sống thực tế của ta trước tình yêu này, đặc biệt khi chúng ta gặp đau khổ. Theo văn mạch, Phaolô đang nói về những gian truân, bỉ cực, bắt bớ, đói khát, hiểm nguy. Và ngài quả quyết mạnh mẽ: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta. Ðúng thế. Tôi tin chắc rằng cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loại thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,37-39).

Ở đây, Phaolô chỉ cho ta một phương pháp để soi sáng cuộc sống cụ thể của ta, dựa vào tình yêu của Thiên Chúa mà chúng ta đã suy niệm. Những nguy hiểm rình chờ chúng ta, chính là những gì mà bản thân ngài đã có kinh nghiệm trong cuộc đời. Ngài lần lượt nhớ lại chúng, và thấy rằng không gì mạnh đủ để có thể sánh với ý nghĩ về tình yêu của Thiên Chúa. Nghĩ tới tình yêu của Thiên Chúa, thì điều tưởng là không vượt qua nổi, sẽ chẳng là gì hết.

Phaolô mặc nhiên mời gọi ta làm như thế. Cứ nhìn vào đời sống của mình đi: những gì là sợ hãi, buồn phiền, lo lắng, mặc cảm, khuyết điểm còn đang giấu kín, hãy lôi chúng ra ánh sáng, đưa ra trước thanh thiên bạch nhật, tra xét chúng, xác tín rằng, dù thế nào thì Thiên Chúa vẫn yêu thương tôi. Tôi có bất tài, Chúa vẫn yêu tôi. Tôi có xấu xí như Thị Nở (nhân vật trong Chí Phèo của Nam Cao), Chúa vẫn thương tôi. Phaolô giục tôi tự hỏi: Ðiều gì hòng thắng tôi đây? Ðiều gì hòng tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa đây?

Tiếp theo, sau khi nhìn vào đời sống cá nhân, Phaolô nhìn ra thế giới chung quanh. Có những nguy cơ đang đe doạ mọi người: cám dỗ của thế gian, quyền lực của Satan, của sự chết, làm cho con người phải khiếp đảm, kinh hoàng.

Chúng ta cũng được mời gọi nhìn ra chung quanh, nhìn ra thế giới: thiếu gì những cám dỗ và những tội lỗi xấu xa, so với ngày xưa còn đáng sợ hơn nhiều, len lỏi khắp nơi, ngay cả những nơi kín cổng cao tường. Rồi con người cảm thấy ngày càng nhỏ bé đơn độc trong một thế giới quá lớn và chất chứa nhiều nguy hiểm, như những khám phá và phát minh của khoa học cho thấy.

Tuy vậy, tất cả những nguy cơ này, nơi mình hay nơi thế giới, vẫn không thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Bởi ta biết rằng Thiên Chúa yêu ta. Ngài “là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta” (Tv 46,2). Nhãn giới của ta phải khác xa nhãn giới của những người không biết đến tình yêu của Thiên Chúa.

* Khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và của Ðức Giêsu Kitô, dường như Pholô luôn xúc động. Chúng ta cũng phải cảm thấy xúc động khi nghe lại mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa. Xúc động chân thành, phát xuất tự tâm hồn, đó là cách đáp ứng hùng hồn nhất, xứng đáng nhất trước mạc khải về một tình yêu lớn lao, một nỗi buồn lớn lao. Không một lời nói nào, một cử chỉ nào có thể thay thế nó, vì nó là ân huệ đẹp đẽ nhất, và cho thấy ý muốn mở rộng tâm hồn cho người khác nhất.

Ðối với chúng ta hôm nay là những người đang muốn đón nhận lời Chúa một cách mới mẻ trong cuộc sống, thì xúc động giống như những nhát cuốc đầu tiên chuẩn bị cho việc gieo giống. Nó mở tâm hồn ta ra, để hạt giống không rơi vào chỗ khô cằn.

Thế nên chúng ta hãy xin Thánh Thần làm cho chúng ta biết xúc động, một sự xúc động sâu xa chứ không phải ngoài mặt, đặc biệt xúc động trứơc những lời mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa.

Ðể kết thúc, mỗi người chúng ta hãy tìm đọc Thánh Vịnh 135/136. Ðây là một thứ Kinh Cầu dài, ca ngợi những việc Thiên Chúa làm cho dân Người, cuối mỗi câu đều có lời đáp: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Chúng ta có thể nối dài Thánh Vịnh này bằng những lời ca ngợi về các việc Thiên Chúa làm cho ta, chẳng hạn: đã ban cho ta Con của Ngài, ban cho ta Thánh Thần, gọi ta là bạn hữu, đặt ta làm thừa tác viên thánh trong Giáo Hội, kêu gọi ta sống đời tận hiến . Và ta cũng biết đáp: Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Lm Micae TRẦN ÐÌNH QUẢNG

(micquang@pmail.vnn.vn)

Chúa Tể Của Những Lời Chúc

Viết vớ vẩn trong thiệp? Cô bạn lớp 12 sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi.

Nói ngớ ngẩn trong tiệc? Nỗ lực đổ lỗi cho rượu của tôi không khiến khách mời thông cảm hơn.

Không phải ai trong chúng ta cũng giỏi diễn đạt với ngôn từ. Và bạn không muốn phá hỏng số ít dịp hiếm hoi chính thức trong năm để gây ấn tượng với người.

Tôi vốn ghét những lời chúc máy móc vì chúng chỉ nhận được những phản hồi thờ ơ. Nhưng thỉnh thoảng, những mối quan hệ xã hội cần một lời chúc áp dụng được cho mọi trường hợp.

Sau nhiều lần kẹt bút trước tấm thiệp và cứng họng trong buổi tiệc, tôi đã dấn thân truy tìm một lời chúc có thể thống trị tất cả. Chúa tể của những lời chúc.

Chúa Tể của Những Lời Chúc

#Kịch bản 1: Chữ, Chữ và Chữ

Bạn ngồi trước tấm thiệp. Nhiệm vụ rất rõ ràng: gói gọn tình cảm của bạn trong một mảnh giấy A5.

Bạn cắn bút. Bạn ngả người suy nghĩ. Bạn bắt đầu bằng “Chúc mừng…”. Viết gì sau đó nhỉ? Rồi bạn ghi thêm vài từ như “may mắn” và “hạnh phúc”.

Tiếp tục ghi thêm vài đoạn nữa gợi lại kỷ niệm.

Bạn đi mua một tấm thiệp khác.

Lặp lại quá trình trên.

Nghe quen không?

May mắn là, lời chúc, cũng như nhiều điều khác trong cuộc sống, không cần màu mè và phức tạp.

Đây là mẫu chúc mặc định của tôi cho người quen, đối tác và khách hàng trong năm 2014:

X thân mến,

Xin chào! Chúc mừng sinh nhật. Chúc mừng năm mới. Chúc Noel vui vẻ. Chúc may mắn. Chúc lên đường bình an. Chúc sức khỏe. Mừng sinh nhật. Mừng Lễ Phục sinh vui vẻ. Xin chúc mừng. Và nhiều hạnh phúc trong mọi điều bạn làm. Chúc một ngày tốt đẹp.

Mong bạn hãy nhận ở tôi những tình cảm tốt đẹp nhất.

~ Susie Morgenstern, tiểu thuyết Những Lá Thư Không Gửi

Mẫu này hiệu quả vì (1) áp dụng được cho mọi dịp (sinh nhật, năm mới, Noel, tiễn biệt, đám cưới, bỗng dưng thấy nhớ…) và (2) bạn được tự do lèm bèm giữa đoạn 1 và đoạn 2 mà vẫn giữ ấn tượng tốt đẹp (bởi trí óc con người thường nhớ nhất đoạn đầu và đoạn cuối).

Chúa Tể của Lời Nâng Ly

#Kịch bản 2: Cạn Ly

Bạn đang ở buổi tiệc. Mọi người đề nghị bạn nâng ly chúc mừng. Họ nhìn bạn, trông đợi một lời phát biểu đủ sức bật tung hứng khởi.

Bạn muốn nói một điều gì đó hay ho, thông minh, hài hước. Nhưng, không hiểu sao từ ngữ cuộn tròn lại không bật ra được khỏi vòm họng bạn.

Mọi người vẫn đang nhìn bạn. Chờ đợi.

Sau một phút im lặng đáng sợ và rất nhiều cái ho húng hắng, bạn cất tiếng.

Lời của bạn tan vào không khí loãng. Đám đông vỗ tay hờ rồi tiếp tục như chưa có gì xảy ra.

Gá mà có lỗ đen dưới chân để bạn chui xuống.

Lời chúc rượu tương đương như một cái dù.

Trong sự im lặng gió sau tiếng chạm ly leng keng, bạn nên bảo đảm mình thủ sẵn đó.

May mắn là, bạn chỉ cần nhớ một công thức đơn giản: đối tượng để chúc + lời chúc trìu mến dành cho đối tượng.

Suốt năm qua tôi đã không nghe được lời chúc nào tốt hơn câu sau:

Vì những người phụ nữ ta đã gặp và những người phụ nữ ta đã yêu.

Và vì những ai trong chúng ta đã không được may mắn thế.

Vì bia trong ly và vodka trong cốc.

Vì tất cả các bạn và vì tôi, mãi là bạn chúng ta sẽ luôn bên nhau.

Nhưng nếu ta có bao giờ bất đồng ý kiến,

Thì KHỐN KIẾP, LY NÀY LÀ VÌ TÔI.

– Tucker Max, tiểu thuyết I Hope They Serve Beer in Hell

Chào buổi tối mọi người – với những ai chưa biết tôi, tôi là [mối quan hệ với chủ tiệc/khách]. Đầu tiên, tôi muốn cảm ơn [chủ tiệc] đã mời chúng ta đến đây, đặc biệt là [nhân vật trong tiệc]. [Chủ tiệc/khách] và tôi đã biết nhau kể từ khi [Kỷ niệm lần đầu gặp], khi chúng tôi chia sẻ tình yêu chung cho [sở thích], [thần tượng], và [từ gì đó khác ngoài “mê trai/mê gái”].

[Chủ tiệc/khách] đã là một người bạn tốt và khi cùng dự tiệc, tôi không thể nào hạnh phúc hơn khi thấy bạn ngày càng tiến gần đến mục tiêu của mình.

Cầu mong tất cả chúng ta đều được may mắn với nhiều hạnh phúc như tôi đã cảm nhận hôm nay.

Hãy cạn ly. Vì những ngày đẹp nhất là những ngày ta chưa sống!

Vì con cái của chúng ta: mong các em có những ông bố giàu có và những bà mẹ nóng bỏng.

– David “Kappo” Kaplan, phim How to Make It in America

Đây. Đơn giản và hiệu quả. Không quá xa cách, không quá xuồng xã. Thân tình vừa đủ.

Chúc các độc giả một năm mới khỏe đẹp, hạnh phúc, yêu thương, tự do, thành công, giàu có và ý nghĩa.

Cạn ly.

Tái bút: Bạn sẽ viết gì tặng PTCNVN trong dịp lễ này?

Bạn đang đọc nội dung bài viết Loi Chuc Tet Cua Thien Chua :: Lời Chúc Tết Của Thiên Chúa :: trên website Altimofoundation.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!