Đề Xuất 6/2023 # Bố Thí Và Cúng Dường Như Pháp – Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikàya # Top 7 Like | Altimofoundation.com

Đề Xuất 6/2023 # Bố Thí Và Cúng Dường Như Pháp – Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikàya # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Bố Thí Và Cúng Dường Như Pháp – Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikàya mới nhất trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Mục Lục

Lời Phật dạy Trong Kinh Nikàya

Lời Phật dạy Trong Kinh Nikàya

BỐ THÍ và CÚNG DƯỜNG NHƯ PHÁP

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Velukandaki làm một thí vật gồm có sáu phần cúng dường chúng Tăng. Bấy giờ, Thế Tôn với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhiên thấy mẹ của Nanda làm một thí vật gồm sáu phần liền bảo các Tỷ kheo:

Này các Tỷ kheo, có ba phần thuộc về người bố thí và có ba phần thuộc về người nhận vật phẩm bố thí. Thế nào là ba phần thuộc về người bố thí ? Này các Tỷ kheo, người bố thí, trước khi bố thí, ý được vui lòng; trong khi bố thí, tâm được tịnh tín; sau khi bố thí, cảm thấy hoan hỷ. Đây là ba phần của người bố thí. Thế nào là ba phần của người nhận phẩm vật bố thí ? Ở đây này các Tỷ kheo, những người nhận phẩm vật bố thí, đã được ly tham hay đang thực hành hạnh ly tham; đã được ly sân hay đang thực hành hạnh ly sân; đã được ly si hay đang thực hành hạnh ly si. Đây là ba phần của người nhận phẩm vật bố thí. Như vậy, này các Tỷ kheo, đây là thí vật có sáu phần.

Này các Tỷ kheo, công đức của thí vật sáu phần thật vô lượng: “Là nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cõi trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, hạnh phúc và an lạc”.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ III, phẩm Chư thiên, phần Bố thí, VNCPHVN ấn hành 1996, tr.91)

 

LỜI BÀN:

Bố thí và cúng dường là pháp tu phổ biến của hàng Phật tử. Tuy nhiên, để đạt được sự bố thí và cúng dường đúng như pháp là việc không phải dễ dàng đối với người thí và người thọ thí.

Người thí chủ thực hành bố thí và cúng dường trước hết phải xuất phát từ sự hân hoan, hoàn toàn tự giác và tự nguyện. Phát tâm bố thí và cúng dường phải đứng trên nền tảng tịnh tín. Bởi lẽ, nếu thiếu tịnh tín thì việc làm cao cả ấy sẽ lệch hướng, chỉ nuôi lớn lòng ngã mạn và thấy rằng ta là kẻ ban ơn. Vì “của cho không bằng cách cho”, do vậy chưa hẳng nhiều tiền lắm của mà thực hành được tịnh thí. Mặt khác, tu tập bố thí và cúng dường phải thành tựu hoan hỷ, vui vẻ khi đem niềm vui đến cho người. Đây là ba yếu tố cơ bản người thí chủ cần tu tập để đạt được sự bố thí và cúng dường như pháp.

Đối với chúng Tăng, những người thọ thí, lại càng phải nỗ lực để hoàn thiện tự thân hơn vì bao giờ “của biếu là của lo, của cho là của nợ”. Nếu không trau giồi, tu sửa thân tâm, đoạn trừ phiền não thì “tín thí nan tiêu”. Sự thọ nhận càng nhiều chỉ mang nợ đàn na thí chủ càng lớn nếu không tạo ra công đức để hồi hướng cho thí chủ. Vì vậy, song hành với tịnh thí của người thí chủ thì người thọ nhận phẩm vật bố thí, cúng dường phải đạt được sự tịnh thọ, tức sự thọ nhận với tâm thanh tịnh, tâm của người nhận đã và đang đoạn tận tham lam, sân hận và si mê.

Do đó, để việc bố thí và cúng dường như pháp, đạt được lợi ích lớn, công đức vô lượng thì ngưòi thí chủ và người thọ thí phải tành tựu “thí vật có sáu phần” như lời Đức Phật đã dạy.

Kinh Doanh Thành Công – Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikàya

Mục Lục

Lời Phật dạy Trong Kinh Nikàya

Lời Phật dạy Trong Kinh Nikàya

KINH DOANH THÀNH CÔNG

Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi, vườn Ghosita, rồi Tôn giả Sàriputta đi đến đảnh lễ và bạch Thế Tôn:

Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì có người buôn bán thất bại, không thành tựu như ý muốn ? Có người buôn bán thành tựu như ý muốn và thành tựu ngoài ý muốn ?

Này Sàriputta, có hạng người đi đến vị Sa môn, hứa hẹn giúp đỡ nhưng không cho như đã hứa. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung đi đến chỗ này, dẫu có buôn bán gì cũng đi đến thất bại, không thành tựu như ý muốn.

Như ở đây, này Sàriputta, có hạng người đi đến vị Sa môn hứa hẹn giúp đỡ, và người ấy đã cho như đã hứa. Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy đi đến chỗ này, dẫu buôn bán gì cũng thành tựu như ý muốn.

Ở đây, này Sàriputta, có hạng người đi đến vị Sa môn hứa hẹ giúp đỡ, và người ấy đã cho nhiều hơn như đã hứa. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, đi đến chỗ này, dẫu buôn bán gì cũng đạt được thành tựu ngoài ý muốn.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 4, phẩm Không hý luận, phần Buôn bán, VNCPHVN ấn hành 1996, tr.708)

 

LỜI BÀN:

Hàng Phật tử tại gia, ngoài việc tu học còn có một nhiệm vụ khác vô cùng quan trọng là lo kiếm sống. Không ít người trong hàng Phật tử kiếm sống bằng nghề buôn bán, kinh doanh lương thiện. Tuy nhiên, không hẳn ai cũng buôn bán thành công dù tận lực với công việc.

 Trong bối cảnh kinh doanh đầy biến động như hiện nay, chỉ xét riêng về những người làm ăn chân chính, có nhiều người phất lên nhanh chóng nhưng cũng có không ít người ngậm đắng nuốt cay vì công việc trì trệ, thậm chí lỗ lã và dẫn đến tán gia bại sản.

Để lý giải cho thành công của mình, đa phần những doanh nhân đều cho rằng họ biết nhìn xa trông rộng, nắm bắt được quy luật thị trường và có chút phần may mắn. Đối với những doanh nhân làm ăn thất bại thì tiết nuối tìm cơ hội khác, vì mình đâu kém ai nhưng sự đời vốn “mưu sự tại người mà thành sự tại trời”

Ít ai ngờ rằng, công việc kinh doanh của họ trong hiện tại thành công hay thất bại có liên hệ mật thiết với phuớc boá mà họ đã gieo trồng trong quá khứ. Chính điều này đã lý giải rõ ràng điều mà ngành kinh tế học không lý giải nổi, đó là cơ may thị trường.

Vì thế, người con Phật khi “làm chơi mà ăn thiệt” thì không vội tự mãn; khi “làm thiệt mà ăn chơi” thì chẳng nên chán nản, bi quan. Bởi trong kinh doanh, ngoài năng lực, nhạy bén, biết chớp thời cơ, nắm bắt cơ hội thì may mắn vẫn là yếu tố quan trọng, đôi khi mang tính quyết định. May mắn ấh, theo Phật giáo chính là phước báo của mỗi người.

Phước báo được tô bồi, vun đắp bời nhiều đời, là nhiều điều thiện. Ảnh hưởng mạnh nhất là sự tạo phước bằng cách trợ duyên cho người thành tựu giới đức có điều kiện tu tập. Do vậy, hãy xây dựng phước báo cho mình trong đời này và đời sau bằng cách phát nguyện hộ trì người tu hành và thực hiện đúng như những gì mình đã phát nguyện.

Phật Thích Ca Nói Về Sự Bố Thí Trong Các Kinh Tạng

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Đức Phật ở trong vô lượng kiếp đã làm người Đại Thí Chủ, giúp khắp các kẻ nghèo khó, rồi mới thệ nguyện thành quả Chảnh Đẳng Chánh Giác (quả vị Phật).

Nếu là phật tử, nên cúng dường những người tật bệnh như cúng dường Chư Phật không khác. Trong 8 món phước điền, phước thăm bệnh là đứng đầu.

Nếu các vị Quốc Vương hay Bàlamôn (giáo sỹ quý tộc) thấy người già cả, tật bệnh, phụ nữ sinh sản… mà trong một niệm, đủ lòng đại từ, bố thí thuốc thang, ăn uống, áo mền… khiến cho họ được an ủi; tu phước như thế không thể nghĩ bàn (thành tựu vô lượng công đức).

Từ nay về sau cần thăm nuôi người bệnh. Nếu ai muốn cúng dường cho Ta (đức Phật) thì cúng cho người bệnh trước.

Cất 100 ngôi chùa, chẳng bằng cứu sống 1 người.

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: có 5 việc bố thí được phước báu lớn:

1. Tạo lập vườn tược (để trồng trọt),

2. Trồng cây bên đường (làm lâm nghiệp)

3. Tạo tác cầu cống (thuỷ lợi & giao thông)

4. Đóng thuyền to (để cứu hộ và phòng thiên tai),

5. Vì người sẽ đến mà xây cất chỗ ở (lo an cư cho dân)

Nếu có người bần cùng, không của bố thí, khi thấy kẻ khác bố thí thì nên khởi tâm tuỳ hỷ (vui vì việc lành của người khác), phước báu tuỳ hỷ ngang với phước báu của kẻ bố thí không khác. Ấy là việc rất dễ làm.

Này, Thiện nam tử! Dầu cho những kẻ bần cùng trong thiên hạ đi nữa, đâu phải họ không có cái thân, nếu họ không có vật chi bố thí, thì mỗi khi thấy người khác tu bố thí, họ đem thân đến mà hiệp lực giúp đỡ.

Xưa kia, có người muốn mở hội cúng dường sữa bò. Bèn dắt bò mẹ nhốt riêng, đợi đến khi mở hội vắt sữa luôn một thể. Đến khi khách đến thì sữa đã khô hết, chẳng vắt được một giọt.

Người muốn đợi cho giàu to rồi mới bố thí chứ thường ngày chẳng chịu cho. Đến khi muốn bố thí, thời của cải đã bị nước, lửa, giặc, tai nạn, tranh đoạt…mất hết, chẳng còn gì mà thí. Cũng như để dành sữa trong bụng bò vậy.

Đức Phật hỏi vua nước Ba Tư:

– Nay có người bảo với Đại Vương rằng: có 4 núi lớn ở 4 phương sắp sập, sẽ đè hại nhân dân thì nhà vua có phương sách gì để đối phó không?

– Nếu quả có việc ấy xảy ra, thật không có nơi lánh nạn, chỉ chuyên tâm trì giới và tu bố thí mà thôi.

Những bậc sa môn, đạo sỹ phải lấy những điều chú ý dạy dỗ nhân dân:

Những bậc sa môn, đạo sỹ dạy người ta bỏ ác làm lành, khai mở con đường chánh đạo, ơn ấy lớn hơn ơn cha mẹ.

Vua nước Iran hỏi đức Phật: “Bố thí và Giữ giới được những quả báo gì?”

Đức Phật đáp: “Tái sinh về cõi trời hoặc cõi người được hưởng an vui”

3 sự bố thí không thanh tịnh:

1. Trước nghĩ muốn cho nhiều, đến khi cho lại rút bớt

2. Chọn vật xấu đem cho người, vật tốt giữ lại cho mình

3. Đã cho xong, sinh tâm hối tiếc của đã cho

Những kẻ thí chủ như vậy không thể gặp đức Phật & các bậc Hiển Thánh được.

Nếu ta làm việc lành, vì sức mạnh tự nhiên mà được hưởng nghiệp báo tốt, dầu cho có sức mạnh của nhà vua viện trợ đi nữa chẳng bằng sức mạnh của nghiệp.

Phước như trái chín, chẳng phải nhờ cúng Thần mà được. Phải biết phước đức do việc làm mà thành, chứ chẳng phải nhờ cúng cầu

Đời lắm kẻ ngu, giữ lòng bủn xỉn chẳng dám bố thí. Đến khi chết, mắt thấy ác quỷ, bấy giờ tuỳ theo lòng tham nặng nhẹ mà lãnh lấy quả báo. Lúc ấy ăn năn đâu còn kịp nữa

Đừng coi thường những việc lành nhỏ, cho là không có phước. Một giọt nước tuy ít mà tích dồn đầy lu. Phước đức đến khi đầy đủ là do chứa dồn từng mảy mún mà thành

Cứu 1 người lúc nguy nan, còn hơn bố thí tất cả

Kinh Luận Đại Trượng Phu

Những người không có đức tin, dẫu có đồ ăn dở mà có kẻ đói đứng trước mặt, họ vẫn chẳng thí, huống là những vật tốt đẹp khác.

Có hai người gặp kẻ hành khất đến xin. Cả hai cùng buồn lo: một người thì lo sợ người ta xin mất của, người kia thì lo cho có được thứ gì để cho. Tâm trạng lo tuy đồng, nhưng quả báo khác nhau: người có lòng hảo tâm thì sanh về cõi Trời hưởng an vui vô tận, kẻ bỏn xẻn thì đoạ vào cõi Ngã Quỷ chịu khổ khó biết.

Hãy bảo với người xin rằng: ” Ngươi thật làm nhân công đức cho ta, khiến ta lìa lòng xan tham đều nhờ nhân duyên người đến xin “.

Nếu thấy người đến xin mà mặt mày nhăn nhó, thời phải biết đang tự mở cửa Ngã Quỷ.

Thường vui tu trí huệ mà chẳng tu bố thí – đời sau được thông minh nhưng nghèo túng. Chỉ vui tu bố thí mà chẳng tu trí huệ – đời sau được giàu to nhưng ngu ám chẳng biết gì.

Hai món đều chẳng tu – nhiều kiếp bị nghèo ngu!

Đem của bố thí làm cho chúng sinh ưa mến.

Đem pháp bố thí thường được thế gian kính trọng.

Thí của, được kẻ ngu mến.

Thí pháp, được người trí trọng.

Thí của phá trừ cái nghèo cùng về của cải.

Thí pháp phá trừ cái nghèo cùng về công đức.

Cho của là cho vui hiện tại.

Cho pháp là cho vui tương lai.

Bậc Bồ Tát có 3 trường hợp rơi nước mắt:

1. Thấy người tu công đức mà rơi lệ vì lòng kính mến.

2. Thấy chúng sinh đau khổ do không có công đức mà rơi lệ vì lòng xót thương.

3. Khi tự tu đại bố thí thường vui mà rơi lệ.

Người mà ý thức luôn được huân tập bởi đức tin, bố thí, tinh tấn, trí tuệ; do nhân duyên này tự nhiên thác sinh lên cõi trên, sinh vào thiện xứ.

Nếu bức bách gia tộc lấy của làm bố thí thì chẳng được phước báo lớn. Chẳng hay cúng dường phụng dưỡng cha mẹ, hoặc làm khổ não vợ con mà làm bố thí thì không được gọi là Nghĩa Thí.

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo rằng: “Thí cho đúng lúc thì có 5 thời điểm:

4. Cho lúc mất mùa đói kém,

5. Cơm mới hay quả mới chín, trước phải cúng cho người tinh tấn trì giới, nhiên hậu mình mới dùng “.

Có ngọc báu cao từ mặt đất đến cõi trời thứ 28, lấy đem bố thí cho người, được phước báu, nhưng không bằng cúng dường cha mẹ.

Bồ Tát, trước phải lo tu bố thí, trì giới, tri túc, tinh tấn… nhiên hậu mới giáo hoá người.

Có 4 món đừng đem bố thí cho người:

1. Của cải phi pháp – vì đồ thí bất tịnh.

2. Rượu và độc dược – vì làm loạn chúng sinh.

3. Lưới giăng, cạm bẫy, dao, cung… – vì hại chúng sinh.

4. Nữ sắc và âm nhạc – vì huỷ hoại sự tĩnh tâm.

Người có được hành vi Công Quả, chỉ bởi bỏ bớt dục lạc thế gian.

– Bố thí được đại phước,

– Trì giới được lên trời,

– Nhẫn nhục được quả báo thân tốt đẹp,

– Tu thập thiện được hưởng phước người trời,

– Từ bi hỷ xả được Phạm Thiên.

Đức Phật bảo đại chúng rằng:

– Nhân là hơn hết trên đời.

– Có nhân mới thành tựu Bố thí, Trì giới, Thiền định.

– Nhân chính là Phật pháp vậy.

Trích dịch trong bộ Đại Tạng Kinh

Người dịch: Hoà Thượng Thích Trí Nghiêm (1911 – 2003)

Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikaya Tập 1

Lời Phật dạy được đăng tải hàng tuần trên báo . Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức và thể nghiệm nhất cho đọc giả.

Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikaya Tập 1

Kinh tạng Nikàya là cả kho tàng kinh điển Phật giáo Nguyên thủy (Pali tạng) rất đồ sộ, hiện đã chuyển ngữ hoàn toàn sang tiếng Việt, bao gồm Dìgha Nikàya (), Majjhima NiKàya (), Samyutta Nikàya ( Tương Ưng Bộ ), Anguttara Nikàya (), và Khuddaka Nikàya (). So với kinh điển Hán tạng thì năm bộ Nikàya chưa phải là nhiều, song với nội dung vô cùng phong phú và được xem là nguyên thủy nhất, Kinh tạng Nikàya là nền tảng căn bản của giáo điển Phật giáo.

Những bài viết trong Lời Phật dạy gồm hai phần, kinh văn và lời bàn. Phần kinh văn hầu hết được trích dẫn nguyên bản hay một trích đoạn của kinh hoặc nguyên đoạn kinh nhưng có tĩnh lược những phần lặp lại cùng với xuất xứ cụ thể, chi tiết của đoạn kinh văn đó. Chúng tôi xem đây là phần quan trọng, chính yếu nhất vì đã góp phần giới thiệu đến bạn đọc nguyên văn lời vàng phát xuất từ kim khẩu Thế Tôn. Phần lời bàn, thực ra chỉ là sự giải thích sơ lược một số từ ngữ hay ý nghĩa kinh văn hoặc là đề xuất một hướng nhận thức cùng sự liên hệ, đối chiếu với thực tế theo thiển ý của người biên soạn, là phần thứ yếu để tham khảo thêm.

Vì tất cả những Lời Phật dạy đều được rút ra từ Kinh tạng Nikàya nên khi tập hợp thành sách có tên . Nội dung tuyển tập (tập I, II và III) được sắp xếp theo từng chủ đề sẽ tiện lợi cho việc tra cứu những lời Phật dạy về một đề tài nào đó vốn rải rác ở nhiều nơi trong Kinh tạng. Tuy nhiên, chủ đề ở đây cũng chỉ mang tính quy ước tạm thời vì có những Lời Phật dạy tuy cô đọng nhưng hàm súc, bao quát ý nghĩa của nhiều vấn đề.

Bằng tất cả sự cố gắng và chân thành, , tập I, đã ra mắt bạn đọc. Để có được tập sách này, ngoài nỗ lực của bản thân là sự giáo dưỡng, trợ duyên rất nhiều của các bậc thầy, pháp lữ và sự tán trợ của đọc giả. Xin chân thành tri ân và ngưỡng mong chư tôn đức cùng bạn đọc hằng soi sáng, chỉ giáo thêm.

Lời Phật dạy là một tiểu mục trong chuyên mục Phật học của báo . Tiểu mục này được xây dựng từ năm 2003, bằng cách trích tuyển nguyên văn hoặc một phân đoạn của những kinh thuộc và (Kinh tạng Nikàya) đồng thời kèm theo phần Lời bàn ngắn gọn, súc tích và thiết thực.

Nội dung kinh tạng Nikàya bao hàm nền tảng căn bản giáo lý Phật Đà, rất thiết thân, gần gũi, dễ hiểu và dễ ứng dụng thực hành. Trong những năm qua, Lời Phật dạy đã lần lượt giới thiệu đến đọc giả rất nhiều pháp thoại với nhiều đề tài khác nhau. Từ những giáo lý căn bản như Tam quy, Ngũ giới cho đến Tứ đế, Duyên khởi, Vô ngã; từ những phương thức xây dựng đời sống gia đình an vui hạnh phúc cho hàng Phật tử tại gia, đến các phương pháp tu tập chuyển hóa phiền não nhằm thành tựu các Thánh vị cho hàng đệ tử xuất gia v.v…đều được Lời Phật dạy chuyển tải đến bạn đọc.

Với khuôn khổ nhỏ hẹp của trang báo, chắc chắn rằng nội dung của Lời Phật dạy chưa thể hiện được hết đầy đủ yếu nghĩa của Kinh tạng. Tuy vậy, với sự tìm tòi rất công phu trong Kinh tạng đồ sộ, trích tuyển kinh văn phù hợp với các nội dung tu tập của từng tời điểm trong năm cùng với cước chú chi tiết nguồn gốc mỗi bản kinh và nhất là phần lời bàn giản dị mà sâu sắc của tác giả đã giúp cho tiểu mục Lời Phật dạy được đông đảo bạn đọc quan tâm, ủng hộ.

Nay nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập và thể nghiệm lời Phậ dạy của bạn đọc, tác giả tiểu mục Lời Phật dạy tập hợp các bài viết đã đăng báo theo từng chủ đề và in thành sách (tập I, II và III). Thiết nghĩ, tập sách này là hành trang cần yếu cho những ai quan tâm nghiên tầm, học tập những tinh hoa mà Đức Phật đã dạy. Với cổ xưa nhất của kinh tạng Nikàya, hy vọng độc giả sẽ được gội nhuần trong phạm âm vi diệu của Thế Tôn, thuở Ngài còn tại thế.

Trân trọng giới thiệu sách (tập I) đến với bạn đọc gần xa.

Có một người lặng lẽ bao năm tìm đọc trong rừng Kinh tạng Nikàya để thâm nhập ý nghĩa của những lời Phật Thích Ca một thời thuyết pháp độ sanh.

Tìm về lời Phật trong kho tàng kinh điển Nikàya, tác giả Quảng Tánh bao năm nay như tự đặt mình vào không gian của Ấn Độ thời cách nay hơn 2.500 năm, chứng kiến trường hợp ra đời của những bài pháp thoại của Thế Tôn, và chiêm nghiệm những gì ẩn tàng bên trong kim ngôn của Đức Phật.

Duy trì một chuyên mục như thế, đòi hỏi không chỉ tâm huyết của người giữ mục, mà khối lượng kiến thức sở đắc, sự nhạy bén trước thời cuộc, tâm nguyện muốn khơi dòng cho Phật đạo chảy mãi trong chúng sinh… là những phẩm hạnh không thể thiếu. Thời gian qua, nội dung của chuyên mục “Lời Phật dạy” thu hút nhiều độc giả. Nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng từng tâm đắc với chuyên mục này, đặc biệt là sự “ăn khớp” giữa nội dung lời kinh với những vấn đề Phật sự đang được công chúng quan tâm trên báo. Đến nay, tất cả nội dung từ chuyên mục này được biên soạn thành tập sách Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya(*) là một tín hiệu vui cho những độc giả bấy lâu theo dõi.

Có như vậy, Phật pháp mới không rời thế gian pháp.

(*) Lời Phật dạy trong Kinh tạng Nikàya, tập 1 – Biên soạn Quảng Tánh – NXB Tôn Giáo – ấn hành quý 2 – 2008.

Những bài Phật học trích từ kinh tạng Nikàya do tác giả Quảng Tánh đứng mục trên Giác Ngộ lại được tập hợp thành sách để ra mắt bạn đọc. “Lời Phật dạy trong kinh tạng Nikàya – tập II” (Nxb Tôn Giáo – quý II, 2009) là những bài kinh có từ lúc Thế Tôn còn tại thế, được thuật lại theo hướng tiếp cận như với những câu chuyện của cuộc sống đương đại cùng với lời bình nhằm góp phần ứng dụng triết lý Phật giáo trong đông đảo quần chúng.

Tiếp cận Kinh tạng Nikàya là tìm về những văn bản có độ tin cậy cao nhất ghi lại lời thuyết pháp từ kim khẩu của Thế Tôn. Giữa muôn trùng lời kinh, việc chọn lọc những câu chuyện gần gũi với cuộc sống, phù hợp với cách tiếp nhận đạo Phật và chứa đựng lợi ích thiết thực của người dân Việt khi hành trì, là cả một nghệ thuật.

Nay, những bài báo được tâp hợp thành sách, bạn đọc có trên tay toàn cảnh của rừng Pháp Như Lai được người biên soạn mở từng cánh cửa và hướng đến mọi người:

Bạn đang đọc nội dung bài viết Bố Thí Và Cúng Dường Như Pháp – Lời Phật Dạy Trong Kinh Tạng Nikàya trên website Altimofoundation.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!