Đề Xuất 6/2023 # Bàn Về Câu Nói Của Triệu Thị Trinh # Top 7 Like | Altimofoundation.com

Đề Xuất 6/2023 # Bàn Về Câu Nói Của Triệu Thị Trinh # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Bàn Về Câu Nói Của Triệu Thị Trinh mới nhất trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Admin

Tổng số bài gửi

:

91

Join date

:

12/01/2010

minhanh-pl9112/01/2010

Tiêu đề: Bàn về câu nói của Triệu Thị Trinh   Tue Jan 12, 2010 8:52 am

Tiêu đề: Bàn về câu nói của Triệu Thị TrinhTue Jan 12, 2010 8:52 am

Câu nói nổi tiếng của Bà Triệu : “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược Ngô, cưỡi ách nô lệ, há chịu cúi đầu làm tì thiếp cho người ta” có ý nghĩa gì trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ?Bà Triệu là người giỏi võ nghệ, có chí lớn. năm 19 tuổi, đáp lời hỏi bà về việc chồng con, bà nói : : “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược Ngô, cưỡi ách nô lệ, há chịu cúi đầu làm tì thiếp cho người ta”. Bà cùng anh trai chiêu tập nghĩa binh, quyết lòng đánh đuổi quân Ngô cứu nước, cứu dân.Có thể nói, Bà Triệu là tấm gương sáng chói về cuộc cách mạng nhân quyền sớm trên thế giới, vì vào thời điểm mà Bà khởi nghĩa, chế độ nô lệ còn đang bành trướng mạnh mẽ khắp nơi và thân phận của người phụ nữ vẫn bị coi là rẻ mạt. trong hoàn cảnh đất nước đang bị ngoại bang thống trị, với những lễ nghi tôn giáo khắt khe, người đàn ông thường được suy tôn là “đại trưởng phu”, là “anh hùng nam tử” và được quyền “năm thê, bảy thiếp”; còn người phụ nữ chỉ là “thân phận nữ nhi”, “liễu yếu đào tơ”, cùng với những chính sách tàn bạo của nhà Hán nhằm khống chế một bộ phận phản kháng ách áp bức bóc lột, gieo rắc trong lòng xã hội tính “trọng nam, khinh nữ”.Tuy nhiên, bà Triệu đã dám khẳng khái tuyên bố rằng “tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình biển Đông”, để phản kháng lại chế độ và để khẳng định vai trò vị trí của người phụ nữ trong xã hội. thử hỏi đáng nam nhi lức bấy giờ, trong cùng một hoàn cảnh đã mấy ai sánh bằng.để phản đối và chống lại chế độ “trai năm thê, bảy thiếp”, phận làm tì thiếp, một hình thức nô lệ” Bà Triệu đã dứt khoát “há chịu cúi đầu làm tỳ thiếp người ta”. từ đó bà đã dấn thân vào cuộc nổi dậy thực sự. bà đã chiêu binh, phất cờ làm cách mạng đòi sự bình đảng, bình quyền nam nữ. trong đó người phụ nữ không còn phải “cúi đầu làm tỳ thiếp người ta”, và mục tiêu của Bà là “đánh đuổi quân xâm lược Ngô” để nhân dân được hưởng độc lập, thoát khỏi kiếp sống nô lệ.

Câu Hỏi Của Nguyễn Thị Thu Nga

Những câu ca dao tục ngữ hay về cha mẹ, bố mẹ, ông bà

Những câu ca dao tục ngữ hay về cha mẹ, bố mẹ, ông bà

1.Câu tục ngữ rất ngắn gọn, và đơn giản. Ý muốn nói chúng ta phải luôn biết ơn những người đã mày công sinh thành và dưỡng dục chúng ta như: ông, bà, cha mẹ.

2.Câu tục ngữ này có nghĩa là Ai cũng có tổ tiên, nguồn cội của mình, hãy luôn ghi nhớ điều đó.

3.Đây là câu tục ngữ nói về sự thủy chung được nêu lên một cách giản dị và dễ hiểu, muốn nhắn nhủ con cháu phải nhớ ơn ông bà tổ tiên, không được vong ơn bội nghĩa.

4.Giống với câu ở trên, câu tục ngữ này cũng nhắn nhủ chúng ta phải nhớ ơn tổ tiên, ông bà.

5.Câu tục ngữ dùng biết pháp hoán dụ, dùng hình ảnh mạch nước cùng dòng để chỉ hình ảnh con người phải biết ơn nhớ về quê hương cội nguồn.

6.Ai cũng có dòng họ, ai cũng được sinh ra từ cha mẹ, và cha mẹ được sinh ra từ ông bà tổ tiên, … câu này muốn nhắn nhủ luôn nhớ về cội nguồn nơi mình được sinh ra và lớn lên.

7.Câu này có ý nhắc ta nhở chúng ta nhớ đến tổ tông nòi giống và còn rộng lớn hơn nữa

8.Hai câu ca dao thể hiện sự biết ơn, dùng hình ảnh cây và sông để chỉ hình ảnh “ai trồng” “dòng”, ý muốn nhắn nhủ chúng ta phải biết ơn công lao của những người tạo ra thành quả cho chúng ta sử dụng.

9.Câu này muốn nhẳn nhủ tất cả người Việt Nam, dù ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này, cứ đến ngày Giỗ Tổ là hàng triệu người con mang trong mình dòng máu Lạc Hồng cùng nhau hành hương hoặc hướng về đất Tổ, thắp nén tâm hương, nhớ về nguồn cội, tri ân tổ tiên với tất cả tấm lòng thành kính của mình.

10.Từ ngàn đời nay, Giỗ Tổ Hùng Vương luôn là ngày lễ trọng của dân tộc Việt Nam, những người mang trong mình dòng máu Rồng Tiên. Những ngày này, là người Việt Nam, ai cũng mong được hành hương về miền đất Tổ, được lên đỉnh núi thiêng Nghĩa Lĩnh để thành kính dâng nén hương thơm, tỏ lòng tri ân công đức tổ tiên.

11.Bốn nghìn năm qua, dân tộc Việt Nam mãi mãi ghi tạc công lao các Vua Hùng, từ việc nhỏ nhất như dạy dân cày ruộng, đi săn; đến những công trạng lẫy lừng trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, đắp đê trị thủy, đánh đuổi ngoại xâm, giữ yên bờ cõi. Khuyên chúng ta luôn biết ơn đến những người đã hy sinh cho chúng ta hạnh phúc hôm nay.

12.Câu này Chỉ con cái khi cha mẹ còn sống không hết lòng phụng dưỡng, sau khi cha mẹ qua đời lại làm đáng tang thật to, nhằm khoe khoang sự giàu có và hiếu thảo của mình.

13.Đây là bài thơ về ông nội, một người cháu nhớ lại hình ảnh ông nội khi còn sống và qua đó thể hiện nỗi nhớ da diết cùng với lòng biết ơn đến ông nội của mình.

14.Bài thơ này là một người cháu miêu tả về bà ngoại của mình với những hình ảnh quan sát bà ngoại rất kỹ và dồn hết tâm tư tình cảm dành cho ngoại vào những vần thơ.

Hình ảnh người ông được cháu miêu tả rất cụ thể, cháu xem ông như là ông Bụt trong truyện cổ tích, và thể hiện sự hiếu thảo-biết ơn mong rằng sau này lớn khôn sẽ nuôi ông tuổi già.

16.Bài thơ dành cho người ngoại đã mất của một người cháu. Từng câu thơ đều thể hiện nỗi nhớ da diết của người cháu nhớ ngoại, và cứ tưởng như trong mơ “ngoại” vẫn còn đó.

17.Bài ca dao trên đã đưa ra những hình ảnh kì vĩ, vĩnh hằng để so sánh với công lao to lớn của cha mẹ và chỉ có những hình ảnh ấy mới diễn tả nổi.

18.Đây là một bài thơ cực kỳ nổi tiếng, có ý nghĩa là cha mẹ cho chúng ta một cuộc đời, cho chúng ta những bệ phóng để vươn đến trời cao… Cha mẹ cũng luôn là bờ vai yên bình nhất để chúng ta dựa vào những khi thất bại, những khi mệt mỏi trong dòng đời đua chen. Do vậy mà chúng ta cần phải yêu hiếu thảo, yêu thương và kính trọng cha mẹ

19.Cái hay của bài ca dao này là cách nói so sánh cụ thể, nên thơ. Cái đẹp của bài ca dao là thể hiện sự ca ngợi, nói lên lòng biết ơn công cha nghĩa mẹ vô cùng to lớn. Ý nghĩa bài ca dao vô cùng sâu sắc nó dạy chúng ta bài học về lòng hiếu thảo của đạo làm con.

20.Bài ca dao thể hiện một cách cảm động về tình cảm gia đình. Ngôn từ giản dị, dễ hiểu. Bài học, về đạo hiếu, đạo làm con được nêu lên sâu sắc. Tình cảm gia đình là một trong những tình cảm đẹp nhất đối với mỗi chúng ta.

Suy Nghĩ, Bàn Về Giá Trị, Ý Nghĩa Của Lời Nói Trong Cuộc Sống

Hướng dẫn làm bài văn bàn về giá trị,ý nghĩa của lời nói trong cuộc sống hay nhất các bạn có thể tham khảo

Ông bà ta từng có câu:

“Lời nói chẳng mất tiền mua

Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.”

Từ xưa, con người Việt Nam chúng ta đã luôn coi trọng vai trò và ý nghĩa của lời nói trong cuộc sống. Vì vậy, ông bà ta luôn dạy con cháu phải cẩn trọng mỗi khi dùng lời nói để tránh gây hiểu lầm hay mất lòng người khác. Lời nói tuy vô hình nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến chúng ta. Lời nói, chính là sự đánh giá gần nhất nhân cách của một con người.

BÀI VĂN MẪU SỐ 1 GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA CỦA LỜI NÓI TRONG CUỘC SỐNG

“Lời nói chân thành, đúng lúc chẳng khác gì phép màu, làm tái sinh sự sống trong một tâm hồn vốn đã héo khô.” Câu nói ấy là sự giải thích rõ ràng nhất về ý nghĩa của lời nói trong cuộc sống, như vậy, vì sao lời nói lại có sức ảnh hưởng to lớn đến con người như thế?

Lời nói là sự diễn đạt bằng ngôn ngữ để tạo thành một ý hoặc một văn bản hoàn chỉnh nhằm thực hiện một mục đích giao tiếp nào đó. Trong lời nói, ngoài giá trị về mặt ngữ nghĩa, lời nói còn thể hiện thái độ, hàm ý của chủ thể tạo ra nó. Bởi thế, xét đoán một lời nói trọn vẹn không phải là điều dễ dàng và để hiểu rõ mục đích giao tiếp mà người đối diện đang nhắc đến có lẽ cũng không phải điều gì quá ư dễ dàng, nhất là những câu nói mang đầy hàm ý.

Trước hết, lời nói được coi là một phương tiện giao tiếp cơ bản và bản năng nhất của riêng con người chứ không phải bất cứ loài động vật nào khác. Nó giúp con người biểu đạt những suy nghĩ và cách hiểu của mình, để mọi người có thể thấu hiểu những gì đối phương đang muốn thể hiện. Chúng ta giao tiếp hằng ngày với nhau bằng lời nói và chính lời nói lại trở thành một công cụ hữu hiệu và phổ thông nhất để loài người có thể tiếp cận đến suy nghĩ của nhau. Không có lời nói thì quá trình giao tiếp của ta sẽ trở nên chậm chạp và sẽ vô cùng khó khăn khi thay thế lời nói bằng một phương tiện giao tiếp khác.

Lời nói có khả năng tác động mạnh mẽ đến người khác hay với chính bản thân ta. Lời nói có khi là kẹo ngọt dịu dàng, có khi là hoa hồng chứa gai nhọn nhưng nó cũng có thể là con dao sắc gây cho người khác bị tổn thương… Lời nói có thể đưa một con người lên tận đỉnh của vinh quang, của sự sung sướng, có thể giúp cho họ thêm sức mạnh, niềm tin, hạnh phúc, giúp cho một người trong cơn tuyệt vọng trở thành người vững tâm. Ngược lại, lời nói cũng có thể khiến cho người ta từ tuyệt vọng trở nên suy sụp hoàn toàn, làm tổn thương nặng nề, hay thậm chí, nó mang đến cái chết cho một người nào đó… Có khi ta lỡ lời, nhưng có những khi ta trở nên “độc ác”, ta muốn người nào đó thật đau khổ với điều mà ta đang nói nhưng ta không hề nghĩ tới hậu quả sau đó còn khủng khiếp hơn rất nhiều. Chúng ta hay bị tổn thương bởi những lời nói dị nghị của những người xung quanh và chúng ta cũng rất dễ mỉm cười khi nghe những lời có cánh. Vì thế, lời nói được ví như một bông hồng, tuy có lúc nhan sắc của nó thật tuyệt với những cánh hoa mịn màng như nhung, nhưng có lúc chúng lại trở thành những lớp gai nhọn sẵn sang xuyên thấu và làm đau ta bất cứ lúc nào. Vì vậy, những lời nói có khả năng tác động to lớn đến một con người, cho nên mỗi khi ta định nói lên một điều gì đó, cần biết “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, phải biết rằng lời nói của mình sẽ đem đến điều gì nếu nó được nói ra. Bởi lẽ đôi khi sự vô tư quá mức lại khiến chúng ta thốt ra những lời nói không đáng nói, những lời không đáng được nghe.

Bởi mức độ ảnh hưởng to lớn như vậy nên trong cuộc sống, ta luôn phải biết cẩn trọng trước những lời nói của mình. Có những lúc ta buộc phải nói dối, như cách mà một vị bác sĩ nói dối về bệnh tật của một bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, nhưng cần nhất vẫn là lúc chúng ta sống thật với chính mình, nói ra những lời thật lòng. Tuy nhiên đó không phải là thứ phát ngôn nhất thời của cảm xúc, chúng ta nói phải biết trước biết sau, biết thế nào là đúng, thế nào là không gây ác cảm cho mọi người. Những lời nói kia tuy đơn giản mà chẳng hề giản đơn, nó có thể trở thành thước đo nhân cách cho bất cứ ai vào bất kì thời điểm nào.

Mỗi lời nói của chúng ta đều ẩn chứa một sức mạnh vô hình. Hãy biết nói lời dễ nghe, đúng đắn và chân thành để bản thân được vui vẻ và nhận lại sự tôn trọng ở người khác. Cuộc sống ngắn ngủi, cớ gì phải gây cho nhau những tổn thương không nên có?

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA CỦA LỜI NÓI TRONG CUỘC SỐNG

Ông cha ta đã đúc kết rằng ” lời nói gói vàng”. Chỉ bằng cách so sách mà đã gợi giá trị to lớn của lời nói trong cuộc sống, mỗi lời nói vô hình có giá trị như một gói vàng- một trong những kim loại quý nhất trên thế giới.

“Đất xấu trồng cây khẳng khiu

Những người thô tục nói điều phàm phu

Đất tốt trồng cây rườm rà

Những người thanh lịch nói ra dịu dàng”.

Vậy chúng ta phải làm gì để phát huy giá trị của lời nói? Dân gian đã đúc rút: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” tức là mỗi lời ta nói ra phải có mục đích, có chủ ý và được biểu đạt một cách lịch sự, tế nhị nên trước khi nói điều gì, bạn hãy suy nghĩ thật chín. Lời nói dại dột nhất được bật ra là khi ta đang có những cảm xúc tiêi cực như tức giận, nóng nẩy, ghen tuông… bởi khi đó rất hiếm người làm chủ và kiềm chế được bản thân. Vốn dĩ “Lời nói chẳng mất tiền mua” nên hãy “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Sử dụng lời nói đúng lúc, đúng chỗ, đúng mục đích sẽ đạt được hiệu quả giao tiếp cao và để lại thiện cảm trong lòng người khác. Lời ăn tiếng nói là một kĩ năng sống quan trọng, cần thiết nhưng không phải ngày một ngày hai mà ta có thể ăn nói văn hóa mà đó là cả một quá trình rèn luyện, tiếp thu và học hỏi để hoàn thiện bản thân. Ngày nay, khi đất nước đang hội nhập cùng thế giới, con người cũng nên trau dồi cho bản thân vốn ngoại ngữ song cũng không nên bỏ quên ngôn ngữ mẹ đẻ, hội nhập để làm phong phú cho vốn tiếng Việt.

Tôi và bạn, những người trẻ tuổi hãy bắt đầu trau dồi lời hay ý đẹp ngay từ bây giờ bởi ông cha ta đã dạy “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Bởi vì giá trị của lời nói trong cuộc sống thật to lớn.

Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật Trước Khi Nhập Niết Bàn

Khi giác hạnh đã viên mãn thì Phật đã 80 tuổi. Ðến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu già. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng Sa La trong xứ Câu Ly, cách thành Ba La Nại chừng 120 dặm. Một hôm, Ngài gọi ông A Nan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo:

-“A Nan! Ðạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và đạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình ta, theo luật vô thường, bây giờ như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp cũng đã lan khắp nơi, vậy ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa? A Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn”.

Tin đức Phật sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử của Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối.

Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, đức Phật vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền đạo. Một hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Ðà, thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo ông về. Ðến nhà ông Thuần Ðà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm Chiên đàn, thường gọi là nấm heo rừng, vì giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích.

Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giã ông Thuần Ðà ra đi. Ðược một quãng đường, Ngài giao bình bát cho ông A Nan và truyền treo võng lên, trong rừng cây Ta La (Tàu dịch là cây song thọ, cây có hai nhánh lớn chia ra như hai cái nạn), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống võng đầu trở về hướng Bắc, mình nghiêng về phía tay phải, mặt xây về hướng mặt trời lặn, hai chân tréo vào nhau.

Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên Tu Bạc Ðà La đến xin xuất gia thọ giới Sa di với Ngài, Ngài hoan hỷ nhận lời. Ðó là người đệ tử chót trong đời Ngài.

2. Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc

Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp vì đi thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn dò một lần cuối. Ngài phú chúc như sau:

a) Y, bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp.

b) Các đệ tử phải lấy Giới luật làm Thầy.

c) Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ: “Như thị ngã văn”.

d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần:

– Một phần cho Thiên cung,

– Một phần cho Long cung,

– Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở Ấn Độ

– “Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khát, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..”.

– “Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quí giá. Chỉ có chân lý cuả đạo ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tiến lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!”.

Sau khi đã dặn dò cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày Rằm tháng Hai Âm lịch (theo giáo sử Trung hoa).

Rừng cây Ta-la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như chìm lặng trong giây phút nặng nề của sự chia ly.

Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vao trong kim quan và 7 ngày sau, đua kim quan Ngài vào thành Câu thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu).

Tám vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tương dũng đến toan tranh dành Xá lợi. Nhưng ông Hương Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra điều đình, và nhờ thế việc phân chia Xá lợi đều được ổn thỏa.

Trích trong cuốn Phật học Phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa

Thích Thiện Hoa

Bạn đang đọc nội dung bài viết Bàn Về Câu Nói Của Triệu Thị Trinh trên website Altimofoundation.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!