Đề Xuất 6/2023 # Bà Ngô Đình Nhu : Từ Thời Trẻ Sôi Động Đến Những Tháng Năm Ẩn Dật # Top 15 Like | Altimofoundation.com

Đề Xuất 6/2023 # Bà Ngô Đình Nhu : Từ Thời Trẻ Sôi Động Đến Những Tháng Năm Ẩn Dật # Top 15 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Bà Ngô Đình Nhu : Từ Thời Trẻ Sôi Động Đến Những Tháng Năm Ẩn Dật mới nhất trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Tin bà Trần Lệ Xuân tức bà Ngô Đình Nhu, người từng được coi là Đệ nhất phu nhân của Việt Nam Cộng Hòa trước đây từ trần tại Roma cách đây đúng một tuần, ngày chủ nhật 24/4, đã khiến cho dư luận trong và ngoài nước hết sức chú ý. Sau cuộc đảo chính năm 1963, hầu như không ai biết gì về bà, vì bà sống ẩn dật, hầu như không có một tiếp xúc nào với thế giới bên ngoài. Người ta chỉ biết là bà đang viết một cuốn hồi ký.  

Sinh năm 1924 trong một gia đình danh gia thế phiệt, thân phụ là luật sư Trần Văn Chương, thân mẫu là cháu ngoại của vua Đồng Khánh và là em họ của vua Bảo Đại, năm 19 tuổi bà lập gia đình với ông Ngô Đình Nhu. Khi ông Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, thì ông Nhu làm cố vấn chính trị, và vì ông Diệm độc thân nên bà Trần Lệ Xuân luôn là người đứng ra tiếp các phu nhân của các vị quốc khách.

Bà Trần Lệ Xuân cũng là dân biểu Quốc hội, chủ tịch phong trào Phụ nữ Liên đới. Bà đã đưa ra đạo Luật gia đình cấm người đàn ông lấy hai vợ, Luật bảo vệ luân lý và thuần phong mỹ tục, đồng thời có nhiều hoạt động xã hội khác. Chiếc áo dài cổ hở do bà đề xướng, vào thời đó được gọi là « áo dài bà Nhu », cũng là một dấu ấn mà bà để lại đến ngày hôm nay. Là một phụ nữ tài giỏi, xông xáo, nhưng bà cũng có những phát biểu gây sốc làm cho không ít người bất bình.

Tháng 10/1963, bà và con gái là Ngô Đình Lệ Thủy đi Hoa Kỳ và Roma với dự định tố cáo âm mưu lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm của Tổng thống Kennedy và CIA. Nhưng ngày 1/11/63 đã xảy ra đảo chánh, ông Diệm và ông Nhu đều bị sát hại. Bà rời Mỹ với lời tuyên bố : « Tôi không thể sống ở Mỹ, đơn giản vì chính phủ Mỹ đã đâm sau lưng tôi ». Bà sống lặng lẽ ở Paris cho đến cách đây một năm sức khỏe yếu dần, thì sang Roma với người con lớn cho đến khi mất. Một trong những câu nói nổi tiếng của bà là : « Ai đã có người Mỹ là đồng minh thì chẳng cần phải có kẻ thù ».

Luật sư Trương Phú Thứ, người chịu trách nhiệm biên soạn và in ấn cuốn sách của bà Trần Lệ Xuân cho biết, theo dự định thì tác phẩm này sẽ được ra mắt vào năm 2012. Khi được hỏi, cuốn sách do chính bà viết ra hay có ai chấp bút cho bà, ông Trương Phú Thứ nói :

Bà viết ra tự tay bà viết ra chứ không có ai viết thay bà hết, vì bà không có liên lạc với bẩt cứ một người nào hết. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai : các con bà ở mỗi người một nơi. Bà viết cái này khi bà còn ở bên Paris, tức là khi sức khỏe của bà còn tốt. Bà viết trong căn phòng appartement có một mình bà thôi, thì bà đâu có nhờ ai viết được, bà tự viết lấy.

Tiếng Việt của bà thì kém lắm, tiếng Pháp rất là giỏi. Tiếng Pháp bà viết còn hơn cả những người có bằng cấp về văn chương Pháp ở Pháp. Tiếng Pháp của bà rất giỏi nhưng mà tiếng Việt thì kém lắm, thành ra bà phải viết bằng tiếng Pháp. Thế thì bà đưa cho mình, và mình có nhiệm vụ dịch ra tiếng Việt Nam.

Thưa anh, một nhân vật như bà Nhu thì chắc chắn nhiều người rất là trông chờ để biết vì mấy mươi năm nay không có tin tức gì của bà hết. Như vậy liệu cuốn sách đó có đáp ứng được mong đợi của người đọc không ?

Cái này thì tùy theo quan điểm của người đọc. Những người nào tò mò muốn biết về đời tư của bà như thế nào, hoặc thái độ đối xử của bà đối với những người đã gây ra những đau khổ cho bà, hoặc những người vu oan nói xấu bà này nọ, thì không có. Bà không đề cập đến chuyện đó, vì bà coi đấy là những chuyện không đáng để nói tới. Quyển sách của bà truyền đạt những suy tư, tư tưởng của bà đối với thân phận con người, đối với tạo hóa, và rất có thể là nhiều người đọc sẽ thất vọng lắm. Nhưng những cái gì của bà viểt ra thì mình sẽ đưa ra cho công chúng như vậy thôi, mình không thể nào thêm bớt được hết. Một dấu phẩy, một dấu chấm mình cũng không thay. Thứ nhất là bây giờ bà chết rồi mình phải tôn trọng cái đó một cách tuyệt đối.

Như vậy đây không phải là một cuốn tự truyện ?

Không phải là tự truyện mà cũng không phải là hồi ký. Thông thường người ta hiểu hồi ký là viết lại những chuyện đã xảy ra trong quá khứ, những chuyện vui chuyện buồn, chuyện của một cá nhân của một con người. Thế nhưng bà đã quên hết rồi. Bà đã sống 48 năm từ khi lưu vong ra nước ngoài, trong một căn phòng, một chỗ ở rất nhỏ hẹp, sống một cách quá cô độc, không tiếp xúc, không có liên lạc với bất kỳ một người nào hết. Bà chỉ đi ra ngoài mỗi buổi sáng. Thời gian mà bà còn khỏe mạnh thì bà đi ra ngoài, đi lễ ở nhà thờ Saint Léon.

Lâu nay vẫn có nhiều dư luận trái chiều nhau về bà Trần Lệ Xuân. Như vậy trong sách có nói gì về những lời đồn đãi chung quanh tính cách của bà không?

Chuyện đó thì không có. Bà Ngô Đình Nhu hay bất kỳ một người nào trên thế gian này cũng có người ghét người thương. Không ai có thể nói là mình được tất cả mọi người thương mến, kính phục hết, cũng có người này gièm pha ba câu, người kia đố kỵ…Thế nhưng bà Nhu không hề động chạm, đề cập đến bất kỳ một chuyện lớn nhỏ nào như thế. Từ khi bà chọn một cách sống, ở một mình trong một căn phòng, tức là bà đã muốn quên hết, muốn bỏ lại đằng sau lưng tất cả. Những chuyện lớn chuyện nhỏ, chuyện vui chuyện buồn bà bỏ hết. Bà sống như một người khổ tu, gần gần như một người khổ tu vậy.

Ngay cả vấn đề ăn uống, bà cũng chẳng có nấu nướng gì hết. Tôi thấy trong bếp của bà cũng chẳng có một cái nồi, cái chảo hay thìa muỗng gì hết. Trong tủ lạnh mở ra thì độc có một vài chai nước, chỉ có vậy thôi. Thế thì bây giờ người ta hỏi bà ăn ở đâu, bà cũng phải ăn chứ ! Thì thường thường những người Pháp ở trong chung cư đó, họ biết bà như vậy nên thường một hai ngày họ nấu đồ ăn họ mang tới cho bà.

Còn nếu không thì bà sống như thế nào nếu bà không ăn uống gì ạ?

Bà ăn rất ít. Có một lần bà nói với tôi, đây nè anh Thứ à, hai ngày hôm nay tôi chưa ăn và uống gì. Thế rồi bà cười, bà nói là vì tôi không ăn uống nên tôi không có bệnh gì hết.

Nhưng phải nói là bà rất khỏe. Bà chỉ cảm thấy yếu từ đầu năm 2010. Mới đây thôi. Thứ nhất là vì cái tuổi già, đến đầu năm 2010 thì bà bắt đầu cảm thấy yếu. Nhưng mà cách đây chừng độ hai tháng, bà gọi điện thoại cho tôi, tiếng nói của bà vẫn còn rất là to, rất là khỏe. Bà cũng cười vui vẻ lắm trên điện thoại, thì tôi nghĩ là bà khỏe lắm. Thế nhưng mà sau đó thì vì tuổi già, sức khỏe sụt xuống một cách quá mau lẹ.

Thì bà cũng qua đời vì tuổi già thôi, chứ thật ra chẳng có bệnh tật gì. Có một cái vấn đề về sức khỏe là cái chân của bà bị gẫy từ xưa, thành ra đôi khi cũng hơi đau đau chút chút vậy thôi, nhưng không có đau đớn nhiều lắm. Ai đến tuổi già thì cũng bệnh như vậy thôi, cũng suy sụp như vậy thôi, chứ không phải riêng gì bà Nhu. Có nhiều người già phải nằm trên giường bệnh hết năm này qua năm khác. Nhưng mà bà Nhu nằm trên giường bệnh chưa đến một tháng, khoảng độ ba bốn tuần lễ vậy thôi. Bà đi một cách rất là bình an, như vậy thì tôi nghĩ cũng là một phước lành, một phúc đức của bà.

Và cũng có người thân chung quanh ?

À, các con cái thì như cô biết là bây giờ bà còn hai người con trai và một cô con gái. Anh con trai lớn là Ngô Đình Trác thì có vợ con, vợ anh người Ý. Còn cô con gái út là cô Ngô Đình Lệ Quyên thì chồng cũng là người Ý luôn. Nhưng con trai giữa là Ngô Đình Quỳnh thì sống độc thân một mình, không có vợ con gì hết, ông làm việc bên Bỉ.

Khi bà Nhu về La Mã, bà ở căn nhà của gia đình Ngô Đình Trác. Nhà đó cách thủ đô La Mã khoảng 10 cây số. Cái nhà đó là nhà trệt, không có tầng lầu, nhưng mà dưới có một cái tầng hầm. Gia đình ông Trác ở trên, và gia đình của cô Lệ Quyên ở dưới. Họ sống với nhau cả bao nhiêu năm trời rồi, rất là vui vẻ, rất là hòa thuận.

Khi bà yếu quá, ông Trác đưa vô trong nhà thương… Bên đó chắc là mấy người con cũng bận rộn với vấn đề lo tang lễ cho bà, không biết là ngày nào giờ nào nhưng mà tôi biết chắc chắn là sẽ tổ chức rất là kín đáo, trong gia đình mà thôi.

Giám đốc giáo xứ Việt Nam ở Paris, đức ông Mai Hữu Vinh có cho biết là nhiều người tới xin lễ cho bà…

Ở đây, ở California tối hôm qua cũng có làm một buổi lễ để cầu nguyện cho bà Nhu, và trong nhà thờ rất đông, vì họ cũng quý mến bà lắm. Và tôi có được thông báo là tiểu bang Oregon chiều thứ bảy này họ cũng xin lễ ở nhà thờ để cầu nguyện cho bà. Thôi thì bà chết như vậy mà được mọi người nhớ đến trong một cái ân tình như vậy, tôi cũng mừng cho bà lắm.

Vâng, thì thôi cũng tốt cho bà, với những sóng gió mà bà đã trải qua…

Ông và bà Ngô Đình Nhu, năm 1956 (DR).

Tượng Hai Bà Trưng ở bến Bạch Đằng, Saigon, bị cho rằng giống khuôn mặt bà Trần Lệ Xuân và con gái là Ngô Đình Lệ Thủy, đã bị đập bỏ khi bà đi lưu vong ở nước ngoài (DR).

Bây giờ có cái gì là bí mật nữa đâu. Tất cả mọi chuyện đã phơi bày ra ánh sáng hết cả rồi. Ai giết ông Tổng thống, ai giết chồng bà ấy, những thế lực nào đứng đằng sau cuộc đảo chánh, hoặc là bà có bao nhiêu tiền, có bao nhiêu đồn điền…thì người ta biết hết cả rồi, chả có gì gọi là bí mật nữa.

Bà có đặt tựa cho cuốn sách đó chưa ?

Có. Bà lấy một cái dẫn dụ trong Cựu Ước để đặt tựa cho cuốn sách.

Và anh sẽ là người dịch ?

Tôi có sự giúp đỡ rất quý báu của anh Nguyễn Kim Quý, rất giỏi tiếng Pháp. Anh có bằng tiến sĩ văn chương Pháp, và là giáo sư Pháp văn của các trường đại học ở Mỹ. Anh giúp tôi về chuyện đó.

Khi viết cuốn sách này bà Nhu có ước vọng gì, dành cho người Việt hay cho độc giả các nước ?

Bắt đầu cách đây khoảng chừng mười năm, lần đầu tiên tôi gặp bà cố vấn Ngô Đình Nhu, thì bà viết bằng tiếng Pháp, và có ý định sau khi viết xong thì bà sẽ tự tay dịch sang tiếng Anh và tiếng Ý. Thế nhưng về sau có thể có nhiều lý do, như là sức khỏe không được tốt như hồi trước, hoặc là bà bận bịu, nên bà chỉ viết bằng tiếng Pháp mà thôi. Mà ngay cả bản bằng tiếng Pháp thì cũng còn phần cuối dang dở. Thành ra để vài ba tuần lễ nữa, khi gia đình lo tang lễ cho bà xong thì lúc đó tôi sẽ hỏi để lấy cái phần cuối cùng đó.

Có dài lắm không ạ ?

Dài ! Nguyên bây giờ thì cũng đã gần 500 trang rồi, nhưng in ra thì tôi nghĩ khoảng 300 trang thôi vì chữ viết của bà to.

Bà Nhu muốn quyển sách này đến với độc giả khi bà còn sống, chứ không phải là khi bà chết rồi. Thế nhưng khi còn sống bà chưa làm được chuyện đó, thành ra bây giờ khi bà mất mình giúp đỡ để hoàn thành giấc mộng của bà là đưa quyển sách, đưa tư tưởng, suy tư của bà đến với độc giả, đến với người Việt Nam.

Anh dự định cho xuất bản ở đâu ?

Tôi sẽ in và phổ biến bên Mỹ này thôi, còn đương nhiên là sau đó tôi sẽ gởi đi những quốc gia có cộng đồng người Việt Nam đông như là Anh, Pháp, Đức…

Các con của bà có ý kiến gì về cuốn sách này không ?

À, hầu như là không. Vì họ lớn lên ở ngoại quốc, họ tôn trọng tính độc lập của từng cá nhân. Các con của bà thì đương nhiên rất là yêu mến và kính phục bà, nhưng họ không có xen vào những chuyện mà bà làm.

Và những người con của bà Nhu có vẻ cũng kín tiếng như bà ?

Thì như cô thấy đó, từ hồi năm 1963 cho đến giờ các con của bà có ai ra ngoài công chúng, có nói năng gì đâu, không ! Họ rất là im lặng, y như bà vậy thôi. Họ cũng giữ một cái khoảng cách quá xa xôi đối với thế giới bên ngoài

Bà Trần Lệ Xuân (DR).

Qua thời gian tiếp xúc với bà Nhu, anh có cảm tưởng như thế nào về bà ?

Cảm tưởng của tôi thì cũng như rất nhiều người đã nhận xét về bà. Bà là một người đàn bà tài giỏi, can đảm, dám nói và dám làm. Chẳng hạn một chuyện trong quá khứ, khi bà đưa ra đạo luật về gia đình ở Việt Nam, đề cao nhân phẩm của người phụ nữ. Đạo luật đó được Quốc hội biểu quyết thông qua, cấm đàn ông lấy hai vợ, và những vấn đề khác nữa, để nâng cao đời sống của người phụ nữ Việt Nam lên. Mặc dầu hồi đó có những sự chống đối nhưng bà vẫn can đảm vượt qua.

Một phụ nữ như thế mà chọn cuộc sống ẩn dật có lẽ không dễ ?

Tôi thấy là khi chọn lựa một cuộc sống như vậy, chắc là bà phải có những suy nghĩ và quyết định rất là khôn khéo. Từ khi mà bà phải sống lưu vong ở ngoại quốc sau vụ đảo chánh ngày 1/11/63 ở bên Việt Nam, gần như không có ai nói tới bà nữa. Nhưng không phải là người ta sẽ để cho bà yên. Trường hợp nếu bà có một cái manh động, một lời nói, cử chỉ sao đó, đương nhiên họ sẽ nói tới rất nhiều.

Hồi xưa lúc chồng bà chết rồi thì bên Mỹ Tổng thống Kennedy cũng bị giết, thì bà Kennedy cũng là góa phụ. Thế nhưng bà Kennedy về sau đi đến đâu thì người ta theo dõi đến đó, người ta có những bản tường trình đầy đủ, chuyện xấu cũng có mà chuyện tốt cũng có. Thế nhưng đối với bà Nhu thì tuyệt nhiên không, vì bà không đi đâu hết ! Bà tự giam hãm mình trong một căn phòng. Ngay cả buổi sáng đi lễ bà cũng mặc quần áo rất kín đáo, đội mũ, che đầu… để không ai nhận ra bà hết.

Về phần ông linh mục ở nhà thờ Saint Léon, bà đã đi lễ ở nhà thờ đó nhiều năm rồi mà về sau ông mới biết đó là bà Ngô Đình Nhu. Ngay cả sau khi lễ xong bà ở lại dọn dẹp, trang hoàng nhà thờ thì ông cũng nghĩ đó là một giáo dân bình thường thôi. Mãi mấy năm sau, không biết người nào nói với ông thì ông mới biết !

Cũng có nhiều người muốn có một tấm hình của bà lúc về già, nhưng tôi nghĩ là chẳng có ai chụp được cái hình nào hết. Đương nhiên là bà phải già đi, nhưng trông vẫn còn khỏe lắm và vui tươi. Tôi có nhận xét, mỗi lần bà cười trông bà trẻ lắm, làm tôi nhớ lại những hình ảnh mà tôi được coi trên báo chí, trông rất trẻ !Khi bắt đầu cuộc sống lưu vong ở nước ngoài từ năm 1963, bà không có một đồng trong túi…

Như vậy làm sao bà mua được hai căn nhà ở Paris ?

Hai căn nhà là mãi sau này, do một bà bá tước người Ý cho. Mà bà này cho rất là kín đáo, bà Nhu không biết. Thì bà Nhu có một số tiền rất lớn, tôi không biết là bao nhiêu nhưng mà căn hộ đó dù ở trên tầng lầu thứ 11 nhưng cái tòa nhà ở khu đó đắt lắm. Bà nhờ một ông cựu bộ trưởng thời chính phủ De Gaulle mua giùm hai cái appartement.

Có nhiều người đặt câu hỏi, vì sao lại có một số tiền trên trời rớt xuống như vậy, thì vấn đề có nguyên do của nó. Tức là Ngô Đình Trác, con trai lớn của bà lấy một cô vợ người Ý, mà gia đình cô này là một trong những gia đình thế phiệt, vọng tộc, giàu có nhất của nước Ý, thì từ chỗ đó mà ra. Người ta thấy bà sống vất vưởng không có nhà cửa thì có một người cho một số tiền nhưng ẩn danh, không nói cho bà Nhu biết. Mãi đến bốn năm sau, bà kia chết thì bà Nhu mới biết đó là người đã cho mình tiền để mua nhà.

Xin phép được tò mò thêm một câu, tên đề trên hộp thư và interphone tại tòa nhà nơi bà sống là bà Trần Lệ Xuân hay là bà Ngô Đình Nhu ?

Tôi nghĩ có thể bà ghi tên trên hộp thư là bà Ngô Đình Nhu, vì mỗi lần tôi gửi sách cho bà thì tôi đề là Madame Ngô Đình Nhu, bà đều nhận được hết.

Xin cám ơn luật sư Trương Phú Thứ từ Hoa Kỳ đã vui lòng dành thì giờ trao đổi với RFI Việt ngữ hôm nay về bà Trần Lệ Xuân tức bà Ngô Đình Nhu.

Thư TinHãy nhận thư tin hàng ngày của RFI: Bản tin thời sự, phóng sự, phỏng vấn, phân tích, chân dung, tạp chí

Đăng ký

Tải ứng dụng RFI để theo dõi toàn bộ thời sự quốc tế

Download_on_the_App_Store_Badge_VN_RGB_blk_100217

google-play-badge_vi

Tại Sao Phải Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm?

Your browser does not support the audio element.

Cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 đã đưa đất nước Việt Nam vào một khúc quanh lịch sử. Cái chết của hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông là Ngô Đình Nhu, những tướng lãnh tham gia cuộc đảo chánh không ai biết người ra lệnh thủ tiêu hai ông là ai nhưng sau khi tro bụi của cuộc cách mạng lắng xuống những gương mặt đứng phía sau giật dây cho cuộc tàn sát ấy bắt đầu được điểm danh và lịch sử luôn công bằng cho từng người một.

Mặc Lâm phỏng vấn ông Bùi Kiến Thành, một nhân chứng lịch sử, một người bạn, người cố vấn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm từ những ngày đầu tiên khi từ Mỹ trở về Việt Nam chấp chính cho tới khi biến cố xảy ra.

Cái tốt và chưa tốt của chế độ Đệ nhất Cộng hòa

Mặc Lâm: Thưa ông Bùi Kiến Thành, xin cảm ơn ông cho phép chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này. Ngày 1 tháng 11 hàng năm có lẽ ai theo dõi tình hình Việt Nam trong lịch sử đương đại đều nhớ là ngày mà cuộc đảo chính không những lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm mà còn giết cả hai anh em ông ấy tại Sài gòn vào năm 1963. Ông có nhận đình gì về ngày lịch sử này thưa ông?

Bùi Kiến Thành: Có lẽ cũng là một ngày chúng ta nên ôn lại cái được và cái chưa được cái tốt và cái chưa tốt của chế độ Đệ nhất Cộng hòa để chúng ta rút bài học.

Mặc Lâm: Vâng, trước khi đi sâu hơn vào chi tiết xin ông vui lòng cho biết về mối quan hệ của ông với Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Bùi Kiến Thành: Trong khi tôi học ở Columbia vào những năm 1952 cho tới năm 1954 lúc đó thì chí sĩ Ngô Đình Diệm đang ở New Jersey. Cứ mỗi cuối tuần thì ông qua New York thăm chơi với tôi cùng một anh bạn nữa là anh Bùi Công Văn, ảnh là phóng viên của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Cứ tối thứ Bảy thì ông qua ngồi nói chuyện suốt đêm cho tới sáng Chủ Nhật thì ông đi lễ, đi lễ về rồi lại nói chuyện suốt ngày, tới chiều Chúa Nhật thì ông trở lại tu viện Maryknoll.

Chúng tôi sống với nhau trong cảnh bạn cố tri trao đổi như thế trong suốt gần hai năm tại New York trước khi ông Diệm về bên Pháp và sau đó về làm Thủ tướng chánh phủ.

Sau khi ông Diệm về làm Thủ tướng chính phủ chấp chánh vào ngày mùng 7 tháng 7 thì ông Diệm gửi điện qua New York và Washington yêu cầu tôi trở về để giúp đỡ. Ngày 23 tháng 8 năm 1954 sáu anh em chúng tôi là cựu sinh viên của các đại học Mỹ về giúp cho ông Diệm trong thời kỳ rất là khó khăn. Làm Thủ tướng mà không có cảnh sát không có quân đội chỉ vỏn vẹn có 27 sĩ quan đi theo mà thôi.

Người Mỹ không chấp nhận cái lý luận của ông Ngô Đình Diệm nên họ tìm cách lật đổ ông Diệm đi, đó là vấn đề cốt lõi chứ không phải do bà Nhu thế này thế khác. Bà Nhu gây ra nhiều tai tiếng, nhưng không có vai trò chánh hay lý do chánh làm sụp đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. -Bùi Kiến Thành

Cả một đất nước do Pháp đang cai trị vì vậy khi nắm lại quyền tự do, quyền tự chủ, quyền độc lập trong thời kỳ đó rất là khó khăn vì vậy chúng ta phải đánh giá cao việc ông Diệm bình định được tình hình, đưa quân Pháp ra khỏi nước Việt Nam một cách ổn định và xây dựng nền đệ nhất cộng hòa. Điều này khi nghiên cứu lịch sử và đánh giá cao tinh thần của cả một thời kỳ không riêng gì ông Diệm mà những người đi theo hỗ trợ giúp đỡ cho ông Diệm, những nhân sĩ ở miền Nam, nhân sĩ ở miền Trung, miền Bắc… tất cả đều có công lớn đã xây dựng chế độ đệ nhất cộng hòa, nhưng rất tiếc rằng sau đó chúng ta không làm được những chuyện ta cần phải làm để đến nỗi bị đổ vỡ.

Mặc Lâm: Thưa ông trong khi gần gũi với Thủ tướng Ngô Đình Diệm ông và các người được Thủ tướng mời về cụ thể làm những việc gì để giúp cho chính phủ còn non nớt lúc ấy?

Bùi Kiến Thành: Tôi bên cạnh ông Diệm suốt ngày mà! Khi tôi về tại Dinh Gia Long ngày 23 tháng 8 đó ăn cơm trưa với ông Diệm và một số Bộ trưởng, Tổng trưởng, có những nhân hào nổi tiếng của Việt Nam như ông Phạm Duy Khiêm, Bác sĩ Bùi Kiến Tín, Nguyễn Văn Châu… chúng tôi hết sức khẩn thiết làm bất cứ việc gì để ổn định tình thế, tôi ở suốt ngày suốt đêm trong dinh một thời gian rồi sau đó tôi mới dời ra ngoài. Sau khi bố trí lại thì ngày nào đêm nào tôi cũng vào trong dinh để mà làm việc với Thủ Tướng rồi Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Riêng về tôi đặc biệt là có trách nhiệm giúp cho Tổng thống, khi ấy là Thủ tướng, quan hệ với các phái bộ đặc biệt của Mỹ từ bên Mỹ gửi qua chứ không phải quan hệ với sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn thân với Pháp, ông đại sứ Mỹ Donald Heath rất thân với Pháp, sau đó thì Lawton Collins cũng thân với ông Cao Ủy Pháp Paul Ely. Công việc của tôi và của ông Ngô Đình Nhu là bắc cây cầu trực tiếp với chính phủ Mỹ ở Washington, qua những phái bộ đặc biệt của Hoa Kỳ gửi qua trong đó có Trung tướng O’Daniel, Đại tá Lansdale sau này là General Lansdal, Paul Hardwood (Trưởng phái bộ CIA), việc của tôi làm lúc ấy cũng chỉ trong 4 người mà thôi bao nhiêu là công việc hết sức khó khăn.

Xây dựng được tờ báo Tự Do là việc tôi hết sức thú vị. Tôi nói với Thủ tướng mình cần có cơ quan ngôn luận tự do. Tờ báo đó được Bác sĩ Bùi Kiến Tín, lúc đó là Bộ Trưởng Bộ Thông tin, ký giấy phép. Tôi tập hợp những nhân sĩ ở Bắc Hà vào làm trong đó có Tam Lang, có Đinh Hùng, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong, Vũ Khắc Khoan …làm ban biên tập để cho tờ báo Tự do có tiếng nói tự do trong thời kỳ hết sức khó khăn như thế. Chỉ có tờ báo Tự do lúc ấy là thực sự nổi tiếng, có tiếng nói tự do trong một khung cảnh rất khó khăn và để chống lại những tờ báo thiên Pháp hay thân các chế dộ trước kia của Sàigon và những đài phát thanh khi đó tại Sài Gòn theo phe quân đội chửi bới Ngô Đình Diệm suốt ngày. Tôi có nhiệm vụ lập nên đài phát thanh “Tiếng nói Quốc dân đoàn kết”, một đài phát thanh đặc biệt để nói lên những sự việc như thế nào trong khi chúng ta phải xây dựng một chính quyền độc lập đó là việc Thủ tướng Ngô Đình Diệm giao cho tôi làm.

TT Ngô Đình Diệm bắt tay với Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower, tại sân bay Dulles, Washington DC năm 1957. Courtesy U.S. Air Force.

Mặc Lâm: Xin ông nói rõ hơn tại sao đã là thủ tướng mà còn bị đài phát thanh bên quân đội chống phá bằng cách chửi bới công khai như ông vừa nói, phải chăng còn một thế lực nào công khai chống lại Thủ tướng vào lúc sơ khai ấy hay không?

Đài Quốc gia cũng như đài quân đội thì người Pháp, hay thân Pháp, quản lý cứ mỗi ngày chửi bới Ngô Đình Diệm thế này, chửi bới Ngô Đình Diệm thế kia…ngồi trong dinh mà không giải quyết được vấn đề đó vì vậy phải kiên trì xây dựng lực lượng mình lên để giải quyết điều đó.

Không có tổ chức chính trị nồng cốt

Mặc Lâm: Báo chí quốc tế cũng như giới tướng lãnh đa số cho rằng chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ bởi những tuyên bố gây sự giận dữ trong và ngoài nước của bà Ngô Đình Nhu cùng với những hành động đàn áp Phật giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm. Ông có chia sẻ gì về việc này?

Bùi Kiến Thành: Đấy chỉ là một phần thôi thực sự ra chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ còn nhiều vấn đề cốt lõi hơn nữa. Ông Ngô Đình Diệm là một người hết sức yêu nước và có công tâm nhưng ông Diệm không có kinh nghiệm tổ chức. Còn ông Nhu thì rất uyên thâm về vấn đề học thuật, ông học rất giỏi về tổ chức thư viện, ông nghiên cứu rất tốt nhưng không có tài năng tổ chức lực lượng chính trị. Nếu quản lý một nhà nước mà không có tổ chức thì làm sao? Vì vậy cho nên cái Đảng Cần lao của ông Nhu không có tổ chức tốt còn cái “Phong trào cách mạng quốc gia” mà ông Bác sĩ Tín làm chủ tịch sáng lập thì nó cũng chỉ là phong trào thôi. Sau một phong trào rồi thì nó lặng im. Quyền chính trị trong nước là ở trong đảng, mà Đảng Cần Lao không được tổ chức tốt vì vậy cho nên chế độ Ngô Đình Diệm không tồn tại được vì không có tổ chức chính trị nồng cốt để làm việc.

Đấy chỉ là một phần thôi thực sự ra chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ còn nhiều vấn đề cốt lõi hơn nữa. Ông Ngô Đình Diệm là một người hết sức yêu nước và có công tâm nhưng ông Diệm không có kinh nghiệm tổ chức. -Bùi Kiến Thành

Chính phủ Ngô Đình Diệm không làm được, không xây dựng được một đảng chính trị thật sự của dân, do dân và vì dân vì vậy cho nên không đứng vững được và vì thế có thể nói sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm không phải là vấn đề nhỏ bé như chuyện bà Nhu nói cái này cái kia. Có! nó có ảnh hưởng nhưng chuyện đó là chuyện nhỏ đối với khả năng xây dựng nên một chính đảng mạnh thì chính phủ Ngô Đình Diệm không làm được.

Mặc Lâm: Vậy phải chăng do điều mà người ta nhận xét về ông Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa dân tộc đã khiến ông bị người Mỹ lo sợ vì không theo sự dẫn dắt của họ, đặc biệt là khi Mỹ muốn đổ quân vào Việt Nam thưa ông?

Người Mỹ không chấp nhận cái lý luận của ông Ngô Đình Diệm nên họ tìm cách lật đổ ông Diệm đi, đó là vấn đề cốt lõi chứ không phải do bà Nhu thế này thế khác. Bà Nhu gây ra nhiều tai tiếng, nhưng không có vai trò chánh hay lý do chánh làm sụp đổ chính phủ Ngô Đình Diệm.

Mặc Lâm: Thưa ông, một câu hỏi cho tới ngày nay vẫn nằm trong bí mật, ông thân cận với Tổng thống Ngô Đình Diệm nên có lẽ hiểu được phần nào câu trả lời: ai ra lệnh giết anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và tại sao phải giết họ khi đã nắm tất cả quân đội trong tay và họ đã bị bắt?

Mặc Lâm: Trong ngày đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963 ông đang làm gì và có theo dõi hay tham gia trong một vai trò nào đó hay không?

Bùi Kiến Thành: Hôm đó tôi đang đi làm việc ở ngoài thì nghe phong phanh ngày hôm đó có bạo động. Tôi gọi về trong dinh thì gặp ông già Ẩn, tức là cận vệ của Tổng thống tôi hỏi anh Ẩn hiện giờ có vấn đề gì không vậy? tôi nghe ngoài này xào xáo lắm, thì ông Ẩn trả lời không có vấn đề gì đâu anh Thành ơi, mình hoàn toàn kiểm soát được mọi chuyện!

Ngày hôm đó tôi ở Sài Gòn, tôi muốn làm một cái gì đó để giúp đem lại trật tự an ninh nhưng mà cái thời thế có lẽ như là định mệnh của đất nước mình không cho mình làm gì được trong lúc ấy. Có làm gì được nữa trong lúc ấy khi thế lực của kẻ chủ mưu là người Mỹ đứng sau lưng những ông tướng của mình? thế lực ấy nó quá mạnh chúng ta không làm gì được.

Việc đảo chánh ông Ngô Đình Diệm không phải là chuyện của Dương Văn Minh, Dương Văn Minh chỉ là một con cờ thôi, cũng như Trần Văn Đỗ cũng như mấy ông kia củng chỉ là con cờ còn người chỉ huy, đưa ra tất cả những chiến thuật chiến lược để làm việc này. là người Mỹ mà người đại diện cho Mỹ làm việc này là đại tá Conein, ngồi thường trực tại Bộ Tổng tham mưu để điều khiển mấy ông tướng kia thành ra tất cả bộ tham mưu lúc đó nghe theo lời của một anh đại tá mật vụ của Mỹ, anh thấy có đau khổ chưa?

Mặc Lâm: Theo ông thì tại sao các tướng lĩnh lúc ấy lại nghe theo người Mỹ? Vì những hứa hẹn quyền lực hay âm mưu chính trị nào khiến họ trở thành như vậy?

Bùi Kiến Thành: Do những ông tướng không nghiên cứu tình hình đất nước, do không hiểu lý tưởng, không hiểu được chính nghĩa như thế nào mà đi theo lời của nước ngoài để mà sát hại một tổng thống, tưởng mình làm được cái gì nhưng cuối cùng cũng đầu hàng cộng sản mà thôi chứ làm được gì đâu.

Cái tội của những anh đảo chính Ngô Đình Diệm là tội ngu dốt không biết tình hình kinh tế, tình hình chính trị, tình hình chiến lược trên thế giới nó như thế nào, họ làm cái việc tự mình sát hại mình, đi đến chỗ 10 năm sau phải chắp tay đầu hàng cộng sản.

Đấy là cái tội của các anh làm cho bao nhiêu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải chết, đó là tội của các anh vì các anh không hiểu gì về chính trị, hữu dũng vô mưu, đưa đất nước đến chỗ suy tàn.

Nếu chúng ta có cơ hội thì còn thương lượng được giữa miền Bắc với miền Nam, cũng như Tây Đức và Đông Đức có thể thương lượng với nhau. Chúng ta phải có nội lực có sức mạnh để mà thương lượng chứ không phải giao đất nước cho ngoại bang, giao cho Mỹ rồi đi đến chỗ chết.

Đó là tội của những người tự cho mình giỏi hơn người khác. Không thể nào một dân tộc một đất nước nào giữ được chính nghĩa của mình bằng cách bước theo những đội quân nước ngoài bắn phá làng xóm cả. Không thấy cái đó là mất chính nghĩa. Đầu óc các anh ở đâu mà anh vác súng đi theo người Mỹ vào trong làng xóm bắn giết dân chúng mình, như vậy là không thể được. Vì không thấy nên anh làm hại cả một thế hệ, làm hại cả một đất nước.

Mặc Lâm: Nhiều tài liệu lịch sử nói là chính phủ Ngô Đình Diệm từng có ý định nói chuyện với miền Bắc, ông có ý kiến gì về những chi tiết này?

Bùi Kiến Thành: Khi chính phủ Ngô Đình Diệm thấy cái nguy cơ lính Mỹ đổ bộ lên Việt Nam rồi mà không rút ra được thì chiến tranh sẽ tràn lan, mà chiến tranh khi đã tràn lan rồi thì dù cho quân đội Mỹ có đánh thẳng tới Hà Nội đi nữa thì chúng ta vẫn thua như thường tại vì quân đội Trung Quốc nó sẽ vào vì nó không để cho mình tiến qua biên giới của nó. Vì vậy Miền Bắc sẽ chiến đấu đến cùng để không cho quân của Trung Quốc qua chiếm đóng Việt Nam.

Vì vậy nhìn về chiến lược thì hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu thấy rõ ràng cái nguy cơ tác hại cho cả miền Nam và miền Bắc. Hà Nội cũng có những đầu óc thông minh để mà hiểu rõ sự nguy hiểm khi chiến tranh lan rộng như thế. Đó là đồng thuận về tinh thần là làm sao phải làm dịu chiến tranh xuống để tránh việc tàn phá đất nước. Giữa Nam Bắc Việt Nam phải có sự hiểu biết và tìm giải pháp tránh chiến tranh. Muốn làm việc đó thì Việt Nam phải mạnh, không mạnh thì không nói chuyện được.

Qua sự trung gian của đại sứ Ấn Độ trong Ủy ban Đình chiến, và Đại sứ Pháp…qua các cuộc đi săn bắn của ông Nhu trên vùng biên giới hai bên đã có những cuộc chia sẽ, chưa hẳn là thương thảo nhưng đã liên lạc được với nhau rồi. Khi Mỹ nghe như thế thì họ nói chính phủ Ngô Đình Diệm phản thùng và nó đưa việc này ra cho mấy ông tướng lãnh Việt Nam bảo là ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu bán nước cho cộng sản, vì vậy anh phải lật đổ Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm đi để “cứu nước” không thì họ theo cộng sản,  “bán đứng” các anh cho cộng sản….

Những đầu óc suy yếu của những anh tướng hữu dũng vô mưu không biết gì cả, nghe như thế lại tưởng rằng mình là người ái quốc ái quần, lật đổ Ngô Đình Diệm để cứu đất nước khỏi họa cộng sản.

Tôi đề nghị anh đọc cuốn sách “Robert Kennedy and His Time” của Arthur Schlesinger Jr. viết, trong đó có một chương nói về tình hình Việt Nam. (*)

Trong chương đó có viết Bùi Kiến Thành nói cái gì, Ngô Đình Diệm nói cái gì và Tổng thống Kennedy đã quyết định cái gì. Rất tiếc rằng Tổng thống Mỹ không thực hiện được. Tháng 9 năm 1963 Tổng thống Kennedy đã quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam rồi nhưng do cuộc bầu cử năm 1964 nên không thể làm được cho nên chờ tới năm 64 sau khi bầu xong thì sẽ làm, nhưng rất tiếc vận hạn của nước ta và nước Mỹ là Kennedy bị bắn chết, Ngô Đình Diệm bị lật đổ Việt Nam đi vào cuộc chiến tranh tàn khốc do sự thiếu hiểu biết của một số người nông cạn của phía Mỹ cũng như Việt Nam.

Mặc Lâm: Xin cám ơn ông

(*)Robert Kennedy and His Times – Page 718 – Google Books Result

https://books.google.com/books?isbn=0544080076 Arthur M. Schlesinger – 2012 – ‎Biography & Autobiography

Sự Thật Đạo Luật Tàn Khốc Của Ngô Đình Diệm

(chiasekienhthucnet)-Đạo luật số 91 năm 1959 (gọi tắt là Luật 10-59) có thể coi là một đạo luật tàn khốc do chính Ngô Đình Diệm ban hành nhằm “tận diệt những người cộng sản” và đàn áp những người theo tôn giáo khác không phải là công giáo một lần nữa minh chứng cho những tội ác không thể tha thứ của chế độ thực dân và triều đại bù nhìn Ngô Đình Diệm ở Việt Nam.

Năm 1958, cách mạng miền Nam đang lúc thoái trào, chế độ Diệm tự coi là đã hoàn chỉnh. Tuy nhiên, chế độ khát máu đang tích tụ nguy hiểm cho chính bản thân nó. Trước hết đó là việc lòng người đã không chịu đựng được nữa. Trên chiến trường, kẻ thù đang áp đảo nhưng các nhóm võ trang cách mạng bây giờ không chỉ giành để tự vệ hay diệt ác ôn ở ấp, xã, mà nhiều nhóm đã có căn cứ đứng chân, ở cấp tỉnh và miền đã coi tiểu đội, trung đội, đại đội bộ đội tập trung thực hiện được những trận tấn công theo kiểu Dầu Tiếng, Minh Thạnh, Bến Củi… Tuy lực lượng chưa lớn, chưa nhiều, nhưng đã là những “Bó đuốc cháy loang” báo trước con đường phát triển tất yếu: chiến tranh cách mạng.

Những điều này giải thích tại sao vào đầu năm 1959 trong khi lớn tiếng hô hào “Bắc tiến” để vừa “lấy gân” vừa đòi viện trợ Mỹ, Diệm lại tuyên bố đặt ” miền Nam trong tình trạng chiến tranh ” (tháng 3 năm 1959). Điều này có những lý do giả tạo mà Diệm cố trương ra để đàn áp, nhưng có cái thực của nó. Khi kẻ thù “cực thịnh”, cũng là lúc bộc lộ chỗ yếu của nó.

Tháng 4 năm 1959, với sự tàn ác của mình, quyết tâm nhổ cỏ tận gốc Cộng sản, “Quốc hội” của Diệm thông qua luật số 91. Luật ấy được ban hành ngày 6 tháng 5 năm 1959 mang tên “Luật 10-59” về thành lập các “Tòa án Quân sự Đặc biệt” với lý do ” xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa “, mục đích nhằm tiến hành thanh trừ những người cộng sản ở miền Nam Việt Nam.

Chiếu theo Điều 7 của Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 thì ” những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với nguyên tắc ghi trong Hiến pháp ” nên chính phủ càng dựa vào đó bắt giam những người tình nghi là Việt Minh hoặc hợp tác với cộng sản và tùy ý xét xử.

Đạo luật 10-59 thiết lập các Tòa Án Quân Sự, cuộc xử các bị can theo mẫu Kafka trong đó luật sư buộc tội, người biện hộ, và quan tòa chỉ là một và như nhau. Chỉ có hai bản án: xử tử hoặc khổ sai chung thân, không có quyền kháng cáo, và án lệnh phải thi hành trong vòng 3 ngày, không có giảm khinh, không có kháng cáo, bản án thi hành ngay; dụng cụ tử hình có cả máy chém…. Không kể đối với “cộng sản đã ngoài vòng pháp luật”, tức không cần xét xử, luật này giành cho tất cả mọi người được quy là “phá rối trị an”.

Theo Chương 4 trong tài liệu “Diem and The Republic Of Vietnam (1955-1960)” [xem link http://www.sparknotes.com/history/american/vietnamwar/section4.rhtml ] thì: “Vào tháng 5, 1959, Diệm ban hành đạo luật 10-59, thiết lập các Tòa Án Quân Sự để đi săn lùng Cộng sản ở Nam Việt Nam, những người mà ông ta nhạo báng là Việt Cộng. Những Tòa Án này không đếm xỉa gì tới công lý, và Đạo luật 10-59 đã được áp dụng một cách tàn bạo… Chế độ Diệm là chế độ phi dân chủ, tham nhũng và cực đoan ngay từ đầu.(In May 1959, Diem passed Law 10/59 , establishing military tribunals to search out Communists in South Vietnam, whom he derisively referred to as Viet Cong. These tribunals were unconcerned with justice, and Law 10/59 was brutal in its application… Diem’s regime was undemocratic, corrupt, and extreme from the beginning.)

Sự tàn ác của Ngô Đình Diệm gắn liền với cái máy chém lê đi khắp miền Nam Và câu nói nổi tiếng của ông ta ” Thà giết nhầm còn hơn bỏ sót“! Ông Ngô Đình Diệm còn rất nổi tiếng với các khẩu hiệu: “đồng tâm diệt cộng”, “tiêu diệt cán bộ nằm vùng”, “tiêu diệt cộng sản tận gốc”, thể hiện quyết tâm chống Chủ nghĩa Cộng sản tới cùng của ông. Chính quyền của Ngô Đình Diệm luôn luôn quan niệm cộng sản là kẻ thù chính, nhiệm vụ phản công là tối ưu. Ngô Đình Diệm đã tuyên bố: ” Thấy cộng sản ở đâu là phải bắn bỏ ngay, thấy ai tuyên truyền cho cộng sản cũng bắn bỏ ngay “. Theo bản tiếng Anh, điều 16 thì bắt buộc phải có luật sư, tuy nhiên đấy là trên giấy tờ, trong thực tế ra sao thì không biết. Kèm theo Luật lại có các qui định hành chánh chống Cộng, chẳng hạn con cái gia đình có lý lịch Cộng sản không được đến trường học.

– – Liệt kê ” những hoạt động phá hoại” [Appendix A, từ trang 69 đến 70, Phần 1] và hệ thống tổ chức của “Tòa án Quân sự Đặc biệt” [Appendix A, từ trang 70 đến 71, Phần 2]

– – Những quy định về hệ thống an ninh và chương trình ” chống lại Cộng sản” [Appendix B, từ trang 71 đến 72]

(SH – bấm vào mỗi trang để xem ảnh lớn hơn)

Sau khi luật này được ban hành, lực lượng cách mạng miền Nam bị chính quyền Diệm đẩy mạnh truy quét, bắt bớ, khủng bố. Những tên ác ôn mặc quần áo rằn ri được tổ chức thành từng đội đưa về hoành hành khắp các thôn ấp Củ Chi và các tỉnh thành khác gây ra tổn thất nặng nề cho cách mạng thời điểm bấy giờ. Cho đến năm 1959, ở Củ Chi đã có 500 người bị moi gan mổ bụng, 600 người bị dồn vào bao bố cột đá dìm xuống sông, 150 người bị buộc vào sau xe ôtô kéo trên đường đá…. Toàn bộ số cán bộ ở Củ Chi bị bắt, bị giết lên đến 75%.

Hình bìa sách ” Terreur fasciste au Sud Vietnam – La Loi 10-1959” (Khủng bố Phát xít tại Nam Việt Nam – Luật 10-1959) bản in bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Hà Nội 1961.

Bản gốc đạo luật này được trưng bày tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II – Đà Lạt, ảnh do Phạm Viết Đào chụp. [SH – bấm vào hình để mở lớn]

Hai trang đầu và phóng to của Luật 10-59 được Ngô Đình Diệm ký ngày 6 tháng 5 năm 1959

Hiện nay trên trang Basam đang mở blog đặc biệt “Việt sử ký” với tuyên ngôn:

” … xét thấy trong bao nhiêu năm nay, nhiều diễn biến quan trọng của đất nước đã không được ghi lại, đánh giá một cách khách quan. Khỏi phải nói và khó nói cho hết rằng điều này hệ trọng tới đâu. Phải làm, sớm ngày nào, xã hội, hậu thế bớt trả giá đắt ngày đó.

Mục đích này đáng hoan nghênh bởi nó là một dạng “nhân dân chép sử” để đối chiếu với “chính quyền chép sử”. Tuy nhiên để có một đánh giá thực sự khách quan đối với một sự kiện lịch sử, buộc ta phải tham khảo tiếng nói đa chiều, toàn diện hơn là đóng cửa cho một nhóm lợi ích múa phím.”

Thời gian gần đây nhiều trang mạng nổi lên phong trào “Suy tôn Tổng Thống Ngô Đình Diệm”. Trang Basam đăng không ít bài nhằm phục hồi ‘lòng yêu nước” của chính quyền Ngô Đình Diệm. Thật nực cười, 12 năm dưới chế độ VNCH, anh em nhà họ Ngô không có lấy một nắm mồ đắp nổi, không một tấm bia rõ ràng tên tuổi, không một một nén hương tưởng nhớ tha thiết nào. May nhờ có dịp cải trang nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi năm 1980, phần mộ Ngô gia mới được quy tập đoàn tụ, được xây mồ dựng bia tại nghĩa trang Lái Thiêu – Bình Dương. Tiền di dời cũng được hỗ trợ từ chính quyền nhờ diện hộ gia đình khó khăn, vắng chủ. Vậy mà giờ đây lại có lắm kẻ muốn tung hô một thi hài mà chính tay họ đã nhẫn tâm vất bỏ suốt 12 năm ngay dưới thời họ cầm quyền.

Vừa rồi, trang Basam đăng bài “Lê máy chém đi khắp miền Nam…” với lời kết:

“… Lê máy chém đi khắp miền Nam… phải khẳng định, điều này trước năm 1975 ở miền Nam là không có!” Xét rằng, chép sử không thể ba sàm, cũng với cùng mục đích như Basam vậy: “đánh giá một cách khách quan. Phải làm, sớm ngày nào, xã hội, hậu thế bớt trả giá đắt ngày đó”. Mà bắt đầu là từ bài viết ” Lê máy chém đi khắp miền Nam… ” này.

Máy chém (Guillotine) là hàng nhập khẩu bởi Pháp từ cuối thế kỷ 19. Chẳng biết bao nhiêu cái, chỉ biết sau 1954, khi Pháp rút quân đi thì riêng Hỏa Lò được thừa kế 4 cái. Còn ở miền Nam máy chém được sử dụng để phang phập đầu Việt Cộng theo Luật 10/59.

Thực tế chẳng cần chờ đến 10/59, máy chém đã hoạt động từ trước đó rất lâu, điển hình là vụ hành quyết Ba Cụt – thủ lĩnh phe Hòa Hảo- năm 1956.

Riêng Hồ sơ Lầu Năm Góc (Pentagon Papers) Volume 1, Chapter 5, ” Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960” cho thấy, chính sách tố cộng, diệt cộng cùng Luật 10/59 của chính quyền Diệm là một trong những nguyên nhân nổi loạn ở miền Nam và người Mỹ đã tỏ dấu hiệu hết sức quan ngại từ rất sớm bởi ” We made too many deviations and executed too many honest people” [ Chúng ta (Mỹ và Diệm) đã sử dụng sai lệch quá nhiều và xử tử quá nhiều người lương thiện], trong đó chiếc máy chém chắc chắn điển hình cho “chủ nghĩa yêu nước” bị sai lệch đến ghê rợn của chính quyền họ Ngô.

Trong cuốn ” HoChiMinh – A life“, William Duiker có viết, hơn 2000 người bị hành quyết thường bằng máy chém từ 1957 – 1959 ( Between 1957 and 1959, more than two thousand suspected Communists were executed, often by guillotine after being convicted – Giữa năm 1957 và 1959, hơn hai nghìn người tình nghi là Cộng sản đã bị xử tử, thường bằng máy chém sau khi bị tuyên án ). Nạn nhân cuối cùng của máy chém được ghi nhận là Hoàng Lê Kha – tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Tây Ninh. Trước dư luận mạnh mẽ lên án và phong trào đấu tranh rầm rộ của miền Nam, chính quyền Diệm buộc phải cho Guillotine về hưu non.

Sách The Vietnamese war: revolution and social change in the Mekong Delta của Elliot có dẫn 2 trường hợp khác bị hành hình bằng máy chém: một là Bảy Châu ở chợ Mỹ Phước Tây và hai là một người tên là Tranh ở chợ Bến Tranh. Đấy là chỉ nói về tỉnh Mỹ Tho.

Báo The Straits Times (Singapore) ngày 24 tháng 7 năm 1959 có bài viết “1,000 SEE GUILLOTINING SAIGON” (1000 người xem xử chém ở Sài Gòn)

Số người bị chính quyền Diệm hành hình có lẽ không có con số chính xác.

Ở niền Nam hiện có 3 nơi trưng bày máy chém: Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh ở chúng tôi Bảo tàng Cần Thơ và Khám Chí Hòa. Máy chém ở khám Chí Hòa được chuyển về từ Khám Lớn Sài Gòn từ năm 1953. Ở đây, với lượng tù nhân bị tình nghi VC trung bình 6000 – 7000, đợt cao điểm có khi lên 10000 trong chiến dịch tố cộng, diệt cộng 1956 – 1960, chắc chiếc máy chém không chịu nằm yên đợi ngày vinh dự được phang phập đầu mỗi Hoàng Lê Kha. Sở dĩ vụ tử hình Ba Cụt và Kha Hoàng được biết rộng rãi vì họ nổi tiếng. Ba Cụt là thủ lĩnh giáo phái Hòa Hảo. HLK là tỉnh ủy viên đảng bộ Tây Ninh.

Bảo tàng Lịch sử Quân sự có một đống tài liệu trưng bày về giai đoạn “tố cộng, diệt cộng” của Diệm, trong đó có một quyển nhìn có vẻ là danh sách người bị đem ra xử, tội danh bị quy kết và dĩ nhiên là cả án của bọn ngụy quyền, sơ sơ 1 tờ mặt đã hơn chục người bị tử rồi, thế mà [“nhóm Công giáo basam”] còn dám nói này nọ như:

Theo tôi biết, khi miền Nam được giải phóng chỉ có một máy chém * nặng cả tấn để ở nhà lao Chí Hòa (Sài Gòn), thực chất mang tính chất dọa dẫm, biểu thị quyền lực, luật pháp của một chế độ chứ nó không hề dùng để chặt đầu người. Tôi được biết, dưới chế độ của ông Ngô Đình Diệm, duy nhất có một lần dùng máy chém để chém đầu ông Hoàng Lệ Kha *, một nhân sỹ yêu nước ở Tây Ninh (xin lỗi nếu tôi nhớ nhầm họ tên ông này, vì tôi nghe chuyện này lâu lắm rồi, qua một nhà sử học nổi tiếng). Về sau, thấy dã man, ông Ngô Đình Diệm yêu cầu không sử dụng biện pháp tử hình này nữa.

Ngoài ra trong bảo tàng còn có bày 1 số báo cũ của chính quyền ngụy đưa tin về các vụ chém đầu tử tù, còn nhớ được 2 cái tên là Võ Song Nhân và 1 người là Tư Lép gì đó. Vậy tối thiểu là không chỉ có cụ Hoàng Lệ Kha. Nguyên dòng chữ ” 1 giáo sư, 1 học sinh, 1 cựu binh nhì và 1 vô nghề nghiệpsẽ bị đoạn đầu bằng máy chém” (xem hình chụp lại báo) to đùng thế mà còn bảo là ” cái máy chém ấy chỉ từng chém đầu 1 người thôi… Về sau, thấy dã man, ông Ngô Đình Diệm yêu cầu không sử dụng biện pháp tử hình này nữa.”

Bốn án tử hình: Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư, Lê Văn Thành và Huỳnh Văn Chính (từ trái qua, trên xuống) đăng tải trên báo chí Sài Gòn năm 1962 – Ảnh tư liệu.

Trong 4 người trên thì có ông Lê Hồng Tự và GS Lê Quang Vịnh sau đó thoát án tử và bị đày đi Côn Đảo đến tận 1975 mới được trở về.

Lê Quang Vịnh và mẹ ở Côn Đảo (năm 1971)

“LỄ HUYẾT THỀ CỦA CÁN BỘ SÁT CỘNG”: Trong chiến dịch Tố Cộng những năm 1955-1959, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tổ chức ra những đoàn “cán bộ” này với nhiệm vụ tiêu diệt tận gốc những người gọi là “Cộng sản nằm vùng” (thực chất là những người kháng chiến cũ, những cán bộ cựu Việt Minh từng cầm súng đánh Pháp, bất kể họ có là Cộng sản hay không!).

Luật số 10-59 và hình ảnh chiếc máy chém được tuyên truyền rộng rãi trong dân chúng để khủng bố tinh thần người yêu nước. (Trích báo Buổi sáng, ngày 11 tháng 7 năm 1959)

Một số trang trong cuốn ” Miền Nam từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ” của BS Nguyễn Khắc Viện, NXB Tri Thức, 2009, dẫn lại từ quyển ” Thành tích sáu năm hoạt động của chính phủ ” do Bộ Thông Tin VNCH xuất bản và một số báo chí miền Nam lúc bấy giờ (Tự Do, Cách mạng quốc gia…):

– Trang 303 – “Báo Buổi sáng, 12-10-1959: ” Đây là chiếc máy chém (ảnh) đã chặt đầu tên Cộng sản Võ Song Nhơn, ngay lập tức sau khi tòa tuyên án “

– Trang 308 – ” Công báo ngày 22-5-1959: “…Các tòa án (Quân sự Đặc biệt) sẽ không chờ các tổ chức an ninh giải các tội phạm đến cho mình. Chính tòa án phải là tổ chức chỉ đạo việc truy lùng các thủ phạm và đồng bọn của chúng. Việc tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố phải do chính bản thân các tòa án điều hành. Các tòa án không phải chỉ là những cơ quan xử án và thi hành pháp luật, mà trước tiên đó là những cơ quan có nhiệm vụ phải tiêu diệt nạn khủng bố”

– Trang 309 – “Báo Cách mạng Quốc Gia, 28-4-1959:” Ngày xưa, khi lòng dân chưa yên, khi số kẻ thù của quốc gia còn đông, các nhà cầm quyền đã ban hành những đạo luật nghiêm khắc, ra lệnh vứt bọn tội phạm vào vạc dầu, trói chúng vào những cột đồng được nung đỏ, vứt chúng làm mồi cho cọp đói … Nếu ngày nay chúng ta không có những luật lệ cũng nghiêm khắc như thế thì bọn Cộng sản sẽ lợi dụng để vĩnh viễn thống trị nông thôn.”

– Trang 312 – “Báo Buổi sáng, 15-10-1959: “Theo một phán quyết của phiên xử vắng mặt của Tòa án Quân sự Đặc biệt ngày 02 tháng 10, Nguyễn Văn Lép, tức Tư Út Lép, một Việt Cộng, đã bị tuyên án tử hình. Cách đây một tuần, Lép đã bị sa vào lưới của Cảnh sát trong một khu rừng ở Tây Ninh. bản án tử hình đã được thi hành … Hiện đầu và gan của tên tử tù đã được Hội đồng xã Hào Đước cho đem bêu trước dân chúng”.

Trang 303, 308, 309 và 312 của tác phẩm ” Miền Nam từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ ” của BS Nguyễn Khắc Viện

Tài liệu hiện nay nói về phong trào tố cộng do chính VNCH xuất bản phải kể đến quyển ” Achievements of the campaign of denunciation of communist subversive activities: first phase “, hoặc tên tiếng Việt của nó là “Thành Tích Tố Cộng Giai đoạn I”, do Ủy Ban Tố Cộng của Trần Chánh Thành xuất bản năm 1956, sách nói toàn về thành tích đã bắt được bao nhiêu tên Việt Minh, thiết lập bao nhiêu trại “cải huấn” … quyển này còn lưu trong Thư Viện Tổng Hợp TPHCM hoặc Thư Viện Quốc Gia ở Hà Nội.

” Lê máy chém đi khắp miền Nam ” là cách biểu đạt hình tượng chiến dịch tố cộng, diệt cộng của Ngô Đình Diệm làm kinh hoàng đến từng bụi lúa bờ tre nông thôn miền Nam. Không thể diễn dịch thô rằng, lê máy chém nghĩa là kéo nó đi khắp nơi và rằng, máy cao 4-5m, nặng hàng tấn thì không thể kéo lê được; để từ đó kết luận câu “Lê máy chém đi khắp miền Nam” là sai.

Kết luận: “ …Lê máy chém đi khắp miền Nam…”, phải khẳng định, điều này trước năm 1975 ở miền Nam là có thật. Lịch sử mãi là lịch sử.

Bonus: ảnh lưu tại Gettyimages, chụp năm 1963, có chú thích ” Lính Nam Việt Nam (tuyển từ các tộc thiểu số người Thượng) đang chụp ảnh với những cái đầu Việt Cộng bị chặt “

VT (chiasekienthucnet/tổng hợp/http://sachhiem.net)

5 Lý Do Vì Sao Ngô Đình Diệm Bị Giết

Có rất nhiều nguyên nhân giải thích vì sao Ngô Đình Diệm – Tổng Thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa – đã bị chính những tướng tá trong quân đội ám sát với sự đồng ý của chính quyền Mỹ. Tất cả những lời giải thích đều là giả thuyết vì chỉ những người trong cuộc mới có thể đưa ra sự thật. Đáng tiếc là cho đến nay chúng ta chỉ có thể đưa ra những giả thuyết. Bài viết này trình bày những giả thuyết đó.1 – Ngô Đình Diệm không có kinh nghiệm quân sự – Ngô Đình Diệm xuất thân từ một gia đình quan chức và hoàn toàn không có kinh nghiệm quân sự. Điều này không có gì sai. Nhưng trong thời Chiến Tranh Lạnh, với sự đe dọa của Bắc Việt, Trung Cộng và Liên Xô thì Mỹ và các tướng tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã không phục ông Diệm. Họ cần một người có kinh nghiệm chiến trường để lên kế hoạch đối phó với Bắc Việt ở mặt trận chứ không chỉ lên giấy. 2 – Ngô Đình Diệm không cho Mỹ đưa quân vào Việt Nam – “Nếu các ông đưa quân vào Việt Nam, thì tôi phải giải thích với nhân dân tôi như thế nào?” Đó là một trong những câu nói nổi tiếng của Ngô Đình Diệm, vốn nói lên tư duy và chính sách của ông ta. Tuy ông ta thực hiện vài chính sách chống quân CS như “áp chiến lược” nhưng nhiêu đó không đủ và khiến nhiều người trong giới quân đội và chính trị cảm thấy bất an. Tổng Thống Kennedy, các vị tướng quân đội Mỹ và các tướng tá của VNCH muốn Mỹ đưa quân vào để phòng ngừa sự bành trướng của Bắc Việt. Họ cho rằng không thể bảo vệ đất nước một cách thụ động, mà phải chủ động xây dựng quân sự. Vì Ngô Đình Diệm qúa lưỡng lự và nhất quyết không nghe lời của các Tổng Thống Kennedy và các tướng tá VNCH, nên ông ta đã bị họ ám sát để thay thế bằng một người có tầm nhìn tương tự như họ. 3 – Ngô Đình Diệm có tư tưởng Nho Giáo quá nặng – Tuy là một người Công Giáo và được ăn học theo lý tưởng Tây và Đông Phương, nhưng Ngô Đình Diệm vẫn bị nhiễm Nho Giáo rất nặng. Trong tâm trí ông ta, phong cách lãnh đạo của Mỹ cũng như chủ nghĩa tư bản của họ là một điều không phù hợp với ông ta và người dân Việt Nam. Trong Nho Giáo, tầng lớp lãng đạo phải là tàng lớp “sĩ.” Còn tàng lớp quân đội là tầng lớp “binh,” vốn trong Nho Giáo là một giai cấp thấp kém. Trong mắt ông Diệm, giới quân đội không có đủ tư cách để lãnh đạo. 4 – Ngô Đình Diệm chống CS thụ động – Ngô Đình Diệm chỉ muốn chống CS bằng những biện pháp thụ động như phát triển kinh tế, xây dựng phong trào chống CS. Ngược lại, giới quân đội và Mỹ muốn chống Cộng một cách chủ động. Nghĩa là đem quân vào Nam Việt Nam, xây dựng lực lượng quân sự. Tổng Thống Kennedy cũng bị ám ảnh bởi sự bành trướng của CS sau sự kiện Vịnh Con Heo nên đã mất kiên nhẫn với ông Diệm. Các tướng tá VNCH cũng vậy. 5 – Ngô Đình Diệm không muốn xây dựng dân chủ và nghe lời Mỹ – Đây là điều đã được nhắc đến rất nhiều. Ngô Đình Diệm tuy được lựa chọn làm lãnh đạo nhưng ông ta có rất nhiều quan điểm bất đồng với Mỹ về lối sống, tư duy và nền tảng chính trị. Ông Diệm không hề muốn xây dựng một thể chế dân chủ kiểu Tây Phương, ông ta cho rằng cái Việt Nam cần không phải là dân chủ vì dân trí kém, điều đó sẽ dẫn đến hỗn loạn. Nên ông ta mặc dù nhận viện trợ của Mỹ nhưng không nghe lời họ. Với lý do đó, ông ta đã bị ám sát và được thay thế bởi một người thân Mỹ hơn – Nguyễn Văn Thiệu. Đó là 5 lý do vì sao Ngô Đình Diệm bị ám sát. Đó có phải là một hành động đúng hay không? Có thể là đúng và có thể là sai? Sự ra đi của Ngô Đình Diệm có phải là nguyên nhân khiến VNCH sụp đổ hay không? Hoàn toàn không. Vì VNCH đã phát triển rất mạnh về quân sự và kinh tế sau khi ông ta bị ám sát. Trên chiến trường thì quân lực VNCH và Mỹ đã thắng áp đảo. Đến năm 1973 thì Bắc Việt đã phải ký hiệp ước Paris, vốn là một bản tuyên bố đầu hàng gián tiếp. Rất tiếc là đến năm 1975, khi Đảng Dân Chủ nắm Quốc Hội Mỹ, họ đã rút lời cam kết của Hiệp Ước Paris và không duyệt kinh phí viện trợ cho VNCH và dẫn đến sự sụp đổ của nó. Ngô Đình Diệm là anh hùng hay tội đồ? Liệu ông ta có đáng bị ám sát hay không? Ông ta có nên nghe lời Mỹ hơn hay không? Tôi xin nhường câu trả lời cho các độc giả.Ku Búa @ Cafe Ku Búa

Bạn đang đọc nội dung bài viết Bà Ngô Đình Nhu : Từ Thời Trẻ Sôi Động Đến Những Tháng Năm Ẩn Dật trên website Altimofoundation.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!