Đề Xuất 3/2023 # Acsimet Và Câu Chuyện Về Chiếc Vương Miện # Top 7 Like | Altimofoundation.com

Đề Xuất 3/2023 # Acsimet Và Câu Chuyện Về Chiếc Vương Miện # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Acsimet Và Câu Chuyện Về Chiếc Vương Miện mới nhất trên website Altimofoundation.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Acsimet sinh năm 284 và mất năm 212 trước Công nguyên. Ông sống ở thành phố Syracuse, trên đảo Sicile, con một một nhà thiên văn và toán học nổi tiếng Phidias. Người cha đích thân dạy dỗ và hướng ông đi vào con đường khoa học tự nhiên. 1.    Công thức tính diện tích và thể tích hình lăng trụ và hình cầu. 2.    Số thập phân của số Pi. Năm -250, ông chứng minh rằng số Pi nằm giữa 223/7 và 22/7 3.    Phương pháp tính gần đúng chu vi vòng tròn từ những hình lục giác đều nội tiếp trong vòng tròn. 4.    Những tính chất của tiêu cự của Parabole 5.    Phát minh đòn bẩy, đinh vis Acsimet (có thể do Archytas de Tarente), bánh xe răng cưa. 6.    Chế ra máy chiến tranh khi Cyracuse bị quân La Mã vây. 7.    Chế ra vòng xoắn ốc không ngừng của Acsimet (có thể do Conon de Samos) 8.    Tính diện tích parabole bằng cách chia ra thành tam giác vô tận 9.    Nguyên lý Thủy tĩnh (hydrostatique), sức đẩy Acsimet, Trọng tâm Barycentre 10.    Những khối Acsimet (Solides Acsimet) 11.    Những dạng đầu tiên của tích phân. Nhiều công trình của ông đã không được biết đến cho đến thế kỷ XVIIe, thế kỷ XIXe, Pascal , Monge và Carnot đã làm công trình của họ dựa trên công trình của Acsimet. Acsimet – Tôi đã phát hiện ra rồi Một hôm Quốc vương sứ cổ Hy Lạp muốn làm một chiếc vương miện mới và thật đẹp. Vua cho gọi người thợ kim hoàn tới, đưa cho anh ta một thỏi vàng óng ánh yêu cầu anh ta phải làm nhanh cho vua chiếc vương miện. Không lâu sau vương miện đã được làm xong, nó được làm rất tinh vi và đẹp, Quốc vương rất hài lòng và đội lên đi đi lại lại trước mặt các đại thần. Lúc đó có tiếng thì thầm: “Vương miện của bệ hạ đẹp quá nhưng không biết có đúng đều là vàng thật không?” Quốc vương nghe xong liền cho gọi người thợ kim hoàn tới, hỏi: “Chiếc vương miện ngươi làm cho ta có đúng là toàn bằng vàng không?” Người thợ kim hoàn bỗng đỏ mặt, cúi xuống thưa với vua rằng: “Thưa bệ hạ tôn kính, số vàng Người đưa con đã dùng hết, vừa đủ không thừa cũng không thiếu, nếu không tin bệ hạ cho cân lại thử xem có đúng nặng bằng thỏi vàng Người đưa cho con không ạ.” Các đại thần đem vương miện ra cân thử, quả là không thiếu, vua đành phải thả người thợ kim hoàn về. Nhưng vua biết rằng lời nói của người thợ kim hoàn ấy khó có thể tin được vì rằng anh ta có thể dùng bạc để thay vàng với trọng lượng tương đương mà nhìn bề ngoài không thể phát hiện ra được. Quốc vương buồn phiền chuyện này nói với Acsimet, Acsimet nói với Quốc vương: “Đây quả là bài toán khó, con xin giúp người làm rõ chuyện này.” Về đến nhà, Acsimet cân lại vương miện cùng thỏi vàng, đúng là trọng lượng bằng nhau. Ông đặt chiếc vương miện lên bàn ngắm nghía và suy nghĩ đến mức người phục vụ gọi ăn cơm mà vẫn không biết. Ông nghĩ: “Vương miện nặng đúng bằng thỏi vàng, nhưng bạc lại nhẹ hơn vàng, nếu như trong vương miện có trộn lượng bạc nặng đúng bằng lượng vàng lấy ra, như vậy chiếc vương miện này phải lớn hơn chiếc vương miện làm hoàn toàn bằng vàng. Làm thế nào để biết được thể tích của chiếc vương miện này và thể tích của chiếc vương miện làm toàn bằng vàng cái nào lớn, cái nào nhỏ? Chẳng lẽ phải làm một chiếc nữa, như vậy thì thật tốn công tốn sức.” Acsimet lại nghĩ: “Đương nhiên có thể nấu lại chiếc mũ này và đúc thành vàng thỏi để xem nó còn to bằng thỏi vàng cũ không, nhưng như vậy chắc chắn nhà vua không đồng ý, tốt nhất là phải nghĩ ra cách gì khác để so sánh thể tích của chúng. Nhưng cách gì đây?” Acsimet thông minh bỗng trở lên trầm lặng, ông vắt óc suy nghĩ mãi mà vẫn chưa tìm ra cách. Ông thường lặng lẽ ngồi cả buổi, mọi người nói ông “đang bí”. Một hôm Acsimet đi tắm, vì mải suy nghĩ để nước chảy đầy bồn tắm, sắp tràn cả ra ngoài. Ông bước vào bồn tắm, nước tràn ra ngoài, ông càng chìm người vào bể nhiều thì nước càng tràn ra ngoài nhiều. Acsimet như bừng tỉnh, mắt bỗng sáng lên, ông nhìn nước tràn ra ngoài bể và nghĩ rằng: Số nước tràn ra có thể bằng với thể tích phần cơ thể của ông chiếm trong bể nước không? Ông rất vui, lập tức cho đầy nước vào bồn tắm và lại bước vào bồn, sau đó lại làm lại một lần nữa. Đột nhiên, ông bỗng chạy ra ngoài vỗ tay reo lên: “Tôi đã phát hiện ra rồi, phát hiện ra rồi!” mà quên cả mặc quần áo. Ngày thứ hai, Acsimet đã làm thực nghiệm trước mặt Quốc vương và các đại thần và có cả người thợ kim hoàn để mọi người cùng xem. Ông thả vương miện và thỏi vàng cùng trọng lượng vào hai dụng cụ đựng nước có thể tích bằng nhau được chứa đầy nước, sau đó thu nước tràn ra vào hai bình đựng. Kết quả cho thấy nước ở bên vương miện tràn ra nhiều hơn bên thả thỏi vàng rất nhiều. Acsimet nói: “Mọi người đều đã nhìn thấy. Rõ ràng là vương miện chiếm chỗ ở trong nước nhiều hơn so với thỏi vàng, nếu như vương miện đều là vàng thì lượng nước tràn ra ở hai bên sẽ bằng nhau, cũng tức là thể tích của chúng bằng nhau”. Người thợ kim hoàn không còn gì để thanh minh được nữa, Quốc vương bực tức trừng phạt anh ta. Nhưng cũng rất rui vì Acsimet đã giúp vua giải được bài toán khó này.

TH

Câu Chuyện Và Ý Nghĩa Về Cây Xương Rồng

Câu chuyện về loài cây Xương Rồng được bắt đầu ở một vùng hẻo lánh và khô cằn. Ở nơi đó con người sống rất khó khăn hàng ngày phải đối mặt với nỗi lo âu về cơm áo, cuộc sống gia đình. Nhưng điều đáng nói và bắt đầu câu chuyện ở đây là vùng quê nghèo đó có hai người yêu nhau.

Chàng trai tên Andrew và cô gái tên Hilda đều ở đang độ tuổi đôi mươi. Hilda là người hiền lành, chăm chỉ, cô có làn da trắng, mái tóc đen dài và rất đẹp được người dân trong làng gọi là tóc mây. Andrew cũng là chàng trai với khuôn mặt dễ nhìn và thân hình vạm vỡ, anh cũng thuộc típ người cần cù chịu khó. Hai người có thể nói là một cặp trời sinh nhưng do tính cách cả hai đều rụt rè và một chút lo lắng của sự từ chối mà không ai dám thổ lộ tình cảm.

Đến một ngày nọ, hai người lại có dịp ngồi tâm sự với nhau, sau một hồi nói chuyện và đấu tranh tư tưởng, Andrew đã lấy hết can đảm để thổ lộ tình cảm của mình cho cô gái biết, trong sự lo lắng, hồi hộp và chờ đợi sự đồng ý của cô gái. Nhưng ngày qua ngày chàng trai chỉ nhận được từ Hilda những chậu Xương Rồng. Thật lạ! Theo thời gian tình yêu nồng cháy của hai người dần phai nhạt, một người thì thất vọng còn người kia thì hị vọng mong đối phương sẽ hiểu được tình cảm của mình.

Do thời gian chờ đợi cũng lâu vẫn không thấy hồi âm của Hilda, nên khi có một cô gái khác tỏ tình, Andrew đã nhận lời và đồng ý yêu cô gái đó. Khi biết được tin này Hilda rất thất vọng và buồn bã, cô buồn, khóc rất nhiều. Andrew thì vẫn còn rất nhiều tình cảm với Hilda nhưng bản thân anh nghĩ cô gái đã từ chối mình, nhưng sau một thời gian anh vẫn không thấy cô có người yêu, và nhận được thông tin từ nhiều người hàng xóm là Hilda dạo này rất buồn, hay khóc. Andrew biết tin với địa vị là một người bạn đã đến thăm Hilda, điều bất ngờ khi anh bước tới là nhà của Hilda lúc này rất nhiều xương rồng và có những cây đã nở hoa rất đẹp. Anh đứng thẫn thờ một lúc để ngắm vẻ đẹp của chúng, rồi Hilda bước ra, anh hỏi han và tâm sự và Andrew cuối cùng cũng hỏi lý do sao lại tặng anh ta những chậu Xương Rồng thay vì câu trả lời, bản thân anh nghĩ phải chăng anh xấu xí như loài Xương Rồng nên không xứng đáng với cô. Sau khi được nghe Hilda tâm sự thì Andrew đã không kìm nỗi nước mắt mà ôm trầm lấy cô gái vào lòng. Rồi họ đã có một kết cục tuyệt vời không lâu sau họ đã làm đám cưới và có những đứa con kháu kỉnh, và một vườn Xương Rồng rực rỡ đầy hoa.

Vậy Hilda đã nói gì? Vì trước đây Andrew có nói khoác là anh đã từng học tiếng Tây Ban Nha nên cô gái đã tặng Xương Rồng thay cho câu trả lời. Và Xương Rồng tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là ” Hãy đến và mang em đi “

Các bạn đã hiểu thêm ý nghĩa của Xương Rồng rồi đó nếu bạn yêu ai ngại chưa nói ra thì Xương rồng sẽ là một gợi ý để bạn tặng nửa còn lại của mình. Để mua các loại Xương Rồng các bạn có thể truy cập vào link: https://webcaycanh.com/xuong-rong-canh/

Giới Thiệu Về Chiếc Nón Lá Việt Nam

(Những bài văn hay) – Anh (Chị) hãy giới thiệu về chiếc nón lá Việt Nam. ( Bài làm của học sinh giỏi trường THPT Cẩm Giàng – Hải Dương).

Đề bài: Giới thiệu về chiếc Nón lá Việt Nam

BÀI LÀM

Nón lá từ bao đời nay là bạn của nhà nông. Nước ta nắng lắm mưa nhiều vì thế nón lá là vật dụng không thể thiếu trong sản xuất lao động và trong cuộc sống thường ngày. Không chỉ có giá trị thực dụng nón lá còn được sử dụng với giá trị thẩm mĩ.

Không ai có thể nói chính xác nón lá có từ bao giờ. Có lẽ từ rất lâu đời rồi con người đã biết tạo ra chiếc nón để che nắng, che mưa. Chỉ biết trên trống đồng Ngọc Lũ người xưa đã trạm khắc hình tượng con người đội nón lá chèo thuyền, giã gạo đánh trận… Càng ngày chiếc nón càng được cải tiến đẹp hơn. Đặc biệt từ thế kỉ XIII thời nhà Trần nón lá được sử dụng như hình với bóng trong mọi hoạt động con người Việt Nam, không phân biệt giới tính địa vị tuổi tác.

Có những loại nón lá, nón có chóp nhọn hoặc hơi tù hình chóp rất thông dụng. Nón thúng quai thao thường theo bước các liền anh liền chị trong làn điệu quan họ Bắc Ninh đến với nhiều vùng miền của đất nước, nón thúng không có chóp mái bằng, phía bên trong có vành tròn vừa với đầu người đội. Nón ba tầng cũng giống hình nón thúng song mảnh dễ hơn. Nón bài thơ nổi tiếng ở quê hương xứ Huế thường mỏng có in hình bài thơ phía bên trong đằm thắm trữ tình. Có nhiều nơi sản xuất nón nhưng nổi tiếng nhất vẫn là nón làng Chuông, nón Huế.

Chất liệu làm nón gồm có nan che, lá nón, dây cước. Lá nón thường làm bằng lá cọ ngoài ra có thể làm bằng lá cối, hồ, qui điệp. Lá nón thường chọn loại lá bánh tẻ, phơi được nắng có tẩy một chút cho lá trắng. Dùng bàn là gang lá phảng, buộc lang, tre rừng cũng được ép phẳng các vanh con đường kính chỉ to hơn đầu tăm một chút. Còn vành cái đường kính bằng khoảng đầu đũa. Người thợ thủ công đặt các vanh con vào khung nón trải lượt lá nón bên trong rồi đến lớp buộc lang cho nón cứng khỏe bên ngoài là lớp lá nón đẹp phần chóp nón được khâu khá kĩ để dấu các mối nối giữa các lá nón. Tiếp theo người thơ khâu lá nón vào vanh con từ chóp xuống theo các đường hình tròn của khung mũi cước phải đều mới đẹp. Mái nón phải phẳng đến giữa nón người ta có thể cho các hình trang trước bên trong khâu hết mười sáu vanh con thì đến vanh cái bên ngoài phải có vanh đè để che đầu các lá cọ. Sau cùng là công đoạn tết nôi bằng dây len đan chéo vào nhau rất thẩm mĩ.

Nón lá có nhiều công dụng trong đời sống. Trước hết là giá trị ” thực dụng” che nắng, che mưa. Sau đó phải kể đến các giá trị khác mà nón lá đã đi vào thơ ca nhạc họa. Khi tiễn con về nhà chồng, người mẹ thường đặt vào tay con chiếc nón lá như lời nhẵn gửi yêu thương. Buổi tiễn đưa người yêu hoặc chồng ra trận, cô gái thường đội chiếc nón có quai màu tím. Chỉ bấy nhiêu thôi mà thay cho bao lời hứa hẹn thủy chung đợi chờ làm yên lòng người ra trận. Người xưa còn ví:

” Chồng chành như nón không quai Như thuyền không lái như gái không chồng”

Rồi câu ca dao đằm thắm trữ tình cũng mượn hình ảnh chiếc nón để bày tỏ yêu thương:

” Qua đình ngả nón chông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”.

Và lời thơ của Đỗ Trung Quân cũng từng được phổ nhạc in đậm trong tâm trí người dân Việt Nam:

” Quê hương là cầu tre nhỏ Mẹ về nón lá nghiêng tre”.

Ta từng thấy nón lá có vai trò như thế nào trong đời sống tâm hồn con người Việt Nam. Sau vành nón lá nụ cười đôi mắt duyên dáng e ấp của cô gái đã khiến bao chàng trai siêu lòng. Nón lá cùng với áo dài đã trở thành trang phục truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Nón lá là một vật dụng được làm bằng những chất liệu từ cỏ cây lên cẩn thận trong sử dụng bảo quản mới bền đẹp. Khi mới mua, người thợ nón thường quay một lớp dầu thông bên ngoài nón. Lớp dầu đó làm cho nón bóng đẹp. Và quan trọng khi trời mưa, nước mưa khó thấm vào lá nón. Nó trôi toạt đi lá nón được bảo vệ. Khi đội về ta nên treo nón lên cao tránh để vật dụng nặng đè vào nón khiến nón gãy bẹp.

Ngày nay những chiếc mũ vải thời trang trong đời dần thay thế nón lá bởi nó gọn, nhẹ, bền, đẹp. Nhưng nón lá đã đi vào tiềm thức, nghệ thuật nên nó còn mải với người dân Việt Nam. Các bà các mẹ, các chị đội nón đi chợ, đi làm, đi chơi. Chiếc nón luôn song hành cùng người phụ nữ Việt Nam.

Tác giả: ANH ĐÀO

Thuyết Minh Về Chiếc Nón Lá Việt Nam

Bài làm

Nón lá là hình ảnh bình dị, thân quen gắn liền với tà áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Từ xưa đến nay, nhắc đến Việt Nam du khách nước ngoài vẫn thường trầm trồ khen ngơị hình ảnh chiếc nón lá – tượng trưng cho sự thanh tao của người phụ nữ Việt. Nón lá đã đi vào ca dao, dân ca và làm nên văn hóa tinh thần lâu đời của Việt Nam.

Bạn có còn nhớ trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, chiếc nón lá hiện lên rất tự nhiên, gần gũi:

Sao anh không về thăm quê em Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên Bàn tay xây lá, tay xuyên nón Mười sáu vành, mười sáu trăng lên

Như vậy mới thấy được rằng nón là là biểu tượng cho sự dịu dàng, bình dị, thân thiện của người phụ nữ Việt từ ngàn đời nay.

Để làm được chiếc nón lá đẹp thì người làm cần phải tinh tế, tỉ mỉ từ khâu lựa chọn nguyên liệu, cách phơi lá, cách khâu từng đường kim mũi chỉ. Người ta vẫn bảo làm ra một chiếc nón lá cần cả một tấm lòng là vì vậy.

Nón lá có thể được làm từ lá dừa hoặc lá cọ. Mỗi loại lá lại mang đến sự khác nhau cho sản phẩm. Thường thì những sản phẩm nón làm từ lá dừa có nguồn gốc từ Nam Bộ, vì đây là nơi trồng dừa nhiều. Tuy nhiên làm từ lá dừa sẽ không đẹp và tinh tế như lá cọ. Lá cọ có độ mềm mại, chắc chắn hơn. Khi lựa chọn lá cũng phải chọn những chiếc lá có màu xanh, bóng bẩy, có nổi gân để tạo nên điểm nhấn cho sản phẩm. Quá trình phơi cho lá mềm để dễ làm cũng cần từ 2-4 tiếng, lá vừa mềm vừa phẳng.

Khâu làm vành nón là khâu vô cùng quan trọng để tạo khung chắc chắn cho sản phẩm. Người dùng cần phải lựa chọn nan tre có độ mềm và dẻo dai. Khi chuốt tre thì cần phải chuốt tỉ mỉ để đến khi nào có thể uốn cong mà không sợ gãy. Sau đó người dùng sẽ uốn theo những đường kính từ nhỏ đến lớn tạo thành khung cho nón lá sao cho tạo thành một hình chóp vừa vặn.

Khi đã tạo khung và chuẩn bị lá xong đến giai đoạn chằm nón. Đây là giai đoạn giữ cho khung và lá bám chặt vào nhau. Thường thì người làm sẽ chằm bằng sợi nilong mỏng nhưng có độ dai, màu trắng trong suốt.

Lúc chiếc nón đã được khâu xong thì người dùng bắt đầu quết dầu làm bóng và phơi khô để dầu bám chặt vào nón, tạo độ bền khi đi nắng mưa.

Đi dọc miền đất nước, không nơi nào chúng ta thấy sự hiện diện của chiếc nón lá. Nó là người bạn của những người phụ nữ khi trời nắng hoặc trời mưa. Không chỉ có công dụng che nắng, che mưa mà nón lá còn xuất hiện trong các tiết mục nghệ thuật, đi đến các nước bạn trên thế giới. Nét đẹp văn hóa của nón lá chính là nét đẹp cần được bảo tồn và gìn giữ. Nhắc đến nón lá, chắc chắn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến tà áo dài Việt Nam, bởi rằng đây là hai thứ luôn đi liền với nhau, tạo nên nét đặc trung riêng của người phụ nữ Việt Nam từ ngàn đời nay.

Để giữ chiếc nón lá bền với thời gian thì người dùng cần phải khéo léo, bôi dầu thường xuyên để tránh làm hỏng hóc, sờn nón.

Chiếc nón lá Việt Nam là sản phẩm của người Việt, làm tôn thêm vẻ đẹp của người phụ nữ, và khẳng định sự tồn tại lâu đời của sản phẩm này.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Acsimet Và Câu Chuyện Về Chiếc Vương Miện trên website Altimofoundation.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!